Đặc Điểm, Mục Tiêu Và Chủ Thể Quản Lý Nhà Nước Của Địa Phương Cấp Tỉnh Đối Với Phát Triển Du Lịch Bền Vững




Từ góc độ đảm bảo sự PTBV về xã hội

hợp với nhịp độ tăng trưởng lượng khách và đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở KDDL. Chất lượng nguồn lao động đánh giá bằng số lượng lao động có trình độ chuyên môn phù hợp > 50%.

(13) Mức độ tạo việc làm cho cộng đồng địa phương từ du lịch: Cao hơn tỷ lệ tạo việc làm mới bình thường trước khi có dự án du lịch trên địa bàn, và được lớn hơn 80% người dân trong cộng đồng ghi nhận

(14) Tỷ lệ người dân được lấy ý kiến về quy hoạch, chủ trương đầu tư dự án du lịch trước khi triển khai: 100% chủ hộ trong vùng dự án.

(15) Đóng góp cho xoá đói giảm nghèo và tạo cơ hội nâng cao thu nhập, hưởng lợi cho người dân bản địa từ du lịch: Tăng dần, được lớn hơn 80% người dân trong cộng đồng ghi nhận.

(16) Diễn biến an ninh, trật tự, an toàn xã hội sau khi có HĐDL: Các chỉ số về an toàn giao thông, tệ nạn xã hội, tội phạm không xấu đi bất thường so với diễn biến bình thường khi không có HĐDL, mức độ ghi nhận sự xuất hiện của tệ nạn xã hội khi có HĐDL được nhỏ hơn 10% người dân trong cộng đồng ghi nhận.

(17) Mức độ hài lòng của cộng đồng địa phương đối với HĐDL: Được lớn hơn 80% người dân trong cộng đồng ghi nhận, ổn định.


3


Từ góc độ đảm bảo sự PTBV về tài nguyên và môi trường

(18) Tỷ lệ các khu, điểm có TNDL được quy hoạch, đầu tư: Phải đạt 100%.

(19) Công tác đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích: Số lượng di tích, danh lam thắng cảnh được kiểm kê bảo vệ cần lớn hơn 70% trong tổng số di tích, danh lam thắng cảnh, mới đạt bền vững.

(20) Tỷ lệ các điểm du lịch có xử lý thu gom rác thải: Tỷ lệ có khu xử lý rác thải, tỷ lệ doanh nghiệp có hồ sơ đánh giá tác động môi trường. Công suất xử lý rác thải có đảm bảo hay không.

(21) Giới hạn về sức chứa, cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch: Chỉ tiêu này đạt bền vững khi không vượt quá sức chứa thực tế tối đa tại khu, điểm du lịch trong mọi thời gian.

(22) Chất lượng môi trường (nước sạch, không khí, rác thải, tiếng ồn...) tại các khu, điểm du lịch: Không vượt ngưỡng theo các quy chuẩn, tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể về môi trường do cơ quan chức năng quy định cho từng thời kỳ, được lớn hơn 80% khách du lịch, người dân trong cộng đồng ghi nhận.

(23) Ý thức trách nhiệm của khách du lịch với TNDL và môi trường: Tuân thủ nội quy, quy chế bảo vệ tài nguyên, môi trường tại nơi du lịch; Ý thức của khách du lịch được người dân địa phương ghi nhận ở mức lớn hơn 80% thì mới đảm bảo PTBV.

(24) Ý thức trách nhiệm của cộng đồng dân cư bản địa với TNDL và môi trường: Tuân thủ quy định về bảo vệ tài nguyên, môi trường của địa phương và tuân thủ cam kết bảo vệ tài nguyên, môi trường. Ý thức của cộng đồng dân cư bản được khách du lịch ghi nhận ở mức lớn hơn 80% thì mới đảm bảo PTBV.

(25) Trách nhiệm của cơ sở KDDL với TNDL và môi trường: Tuân thủ nội quy, quy chế bảo vệ tài nguyên, môi trường tại nơi du lịch; Ý thức của các cơ sở KDDL được khách du lịch, người dân địa phương ghi

nhận mức lớn hơn 80% thì mới đảm bảo PTBV.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 244 trang tài liệu này.

Quản lý nhà nước của tỉnh Thanh Hóa đối với phát triển du lịch bền vững - 8

(Nguồn: tác giả tổng hợp)


2.1.2. Đặc điểm, mục tiêu và chủ thể quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững

2.1.2.1. Đặc điểm quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững

QLNN đối với PTDLBV là một lĩnh vực của QLNN, là hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước nhằm quản lý vi mô các HĐDL thông qua hệ thống các chính sách, chương trình, VBQPPL các văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực du lịch nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực du lịch. Có thể thấy hoạt động kinh tế du lịch rất đa dạng và luôn đòi hỏi cần có sự QLNN để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du lịch phụ thuộc vào khung khổ pháp lý và những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước.

Trần Thị Hoà (2016) cho rằng “QLNN đối với du lịch theo hướng PTBV là nhằm tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ quan QLNN về hoạt động kinh tế du lịch. Đồng thời, chỉ có sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với PTDL mới giúp việc khai thác các thế mạnh của từng địa phương đạt kết quả và phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong xu thế PTDL toàn cầu hiện nay”.

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp từ một số quan điểm khác nhau về QLNN đối với PTDLBV, có thể đưa ra định nghĩa tổng quát như sau: QLNN đối với PTDLBV là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước (qua hệ thống pháp luật) đối với các quá trình, HĐDL của con người để duy trì và phát triển ngày càng bền vững các HĐDL nhằm bảo đảm đạt được đồng thời cả ba mục tiêu bền vững về kinh tế, bền vững về văn hóa – xã hội, và bền vững về môi trường và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể.

QLNN đối với PTDLBV nhằm đưa du lịch PTBV theo định hướng chung của tiến trình phát triển đất nước và theo quy định của pháp luật. QLNN đối với PTDLBV là một lĩnh vực của QLNN, do đó, QLNN đối với PTDLBV có những đặc điểm giống đặc điểm của QLNN (Đỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Bưu, 2008):

Thứ nhất, QLNN đối với PTDLBV mang tính chất quyền lực nhà nước, QLNN được thiết lập trên cơ sở “quyền uy” và “sự phục tùng” ở các phương diện hành chính và pháp luật. Toàn bộ các tác động tổ chức và điều chỉnh của quản lý được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực của nhà nước được thể hiện thông qua công cụ pháp luật và được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.


Thứ hai, QLNN đối với PTDLBV là hoạt động mang tính tổ chức, điều hành và điều chỉnh. Cụ thể, các hoạt động QLNN đối với PTDLBV là quá trình tổ chức xã hội, điều hành xã hội và điều chỉnh xã hội. Tất cả các hoạt động của xã hội đều được nhà nước sử dụng các công cụ, phương pháp quản lý để tạo ra một xã hội có tổ chức trên cơ sở có sự điều hành của Nhà nước và điều chỉnh những hoạt động của Nhà nước đó theo định hướng đã đặt ra.

Thứ ba, sự vận hành của QLNN đối với PTDLBV cần có một cơ chế quản lý thích hợp. Cơ chế quản lý đúng đắn sẽ mang lại thành công cho công tác QLNN đối với PTDLBV, có nghĩa là sẽ giúp xã hội phát triển. Do đó, nếu cơ chế quản lý không phù hợp sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác QLNN đối với PTDLBV hay sẽ kìm nén sự phát triển của xã hội hoặc dẫn đến sự khác biệt trong phát triển xã hội của các quốc gia.

Thứ tư, QLNN đối với PTDLBV phải dựa trên cơ sở nền tảng của một thể chế nhất định. Cụ thể, các thể chế này phải được xây dựng dựa trên những chuẩn mực nhất định tạo nền tảng cơ sở cho cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý phải tuân theo nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.

Thứ năm, nhằm thúc đẩy quá trình phát triển xã hội theo chiều hướng liên tục thì hoạt động QLNN đối với PTDLBV được diễn ra thường xuyên và không bị gián đoạn.

Thứ sáu, QLNN đối với PTDLBV là một hoạt động mang tính khoa học và tính kế hoạch cao. Ngoài ra, QLNN đối với PTDLBV tuân theo những yêu cầu khách quan, xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội luôn biến động và phát triển. Do đó, công tác QLNN đối với PTDLBV cần luôn chủ động, sáng tạo để tìm ra các phương thức quản lý thích hợp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.

Tóm lại, QLNN đối với PTDLBV là hoạt động có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và định hướng xã hội theo mục tiêu đã đề ra. Do đó, QLNN là một quá trình phức tạp, đa dạng và là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ xã hội nào. Hoạt động QLNN được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh, văn hóa... Trong đó, hoạt động QLNN về du lịch, lưu trú du lịch thuộc lĩnh vực kinh tế và cũng giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của đời sống xã hội.

2.1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với PTDLBV

Thực chất quá trình QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV là việc tác động của các cơ quan QLNN cấp tỉnh đến các HĐDL tại địa phương nhằm thực hiện các mục tiêu đã định trước. Do đó, mục đích của QLNN địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV là đảm bảo cho du lịch địa phương phát triển một cách ổn định,


bền vững, phát huy tối đa những lợi thế của địa phương và hạn chế những tác động tiêu cực. Điều này xuất phát từ bản chất của du lịch là một lĩnh vực kinh tế mang tính đặc thù, bên cạnh các quy luật chung, du lịch được hình thành, vận động và phát triển theo những quy luật riêng của mình. Theo đó, ngoài những tác động tích cực làm thay đổi bộ mặt KTXH của đất nước, hoạt động này cũng làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực, nhất là đối với môi trường.

Bên cạnh đó, QLNN địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV còn có mục đích là để xóa bỏ dần các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn minh, hoặc đơn thuần chỉ chạy theo lợi nhuận mà phá hoại môi trường sinh thái, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. Cùng với đó là giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các DNDL, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được phát triển hoạt động kinh doanh của mình.

Có thể thấy rằng, nhà nước địa phương cấp tỉnh định hướng sự PTDLBV bằng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của HĐDL và ngành du lịch. Cụ thể là nhà nước không buông lỏng hay thả nổi công tác quy hoạch, kế hoạch mà thay vào đó là phải đổi mới cho phù hợp với yêu cầu xã hội, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua các quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDLBV, nhà nước địa phương cấp tỉnh sẽ định hướng cho các HĐDL tại địa phương PTBV theo hướng tích cực với việc khai thác hiệu quả và bền vững các TNDL, nhất là TNDL tự nhiên và tài nguyên lịch sử.

2.1.2.3. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững

Chủ thể QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV là các cơ quan nhà nước hoặc được nhà nước trao quyền, ủy quyền để quản lý. Trong những năm gần đây, ngành Du lịch đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, sâu sát của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực vượt qua khó khăn của các cơ quan quản lý du lịch từ Trung ương đến địa phương và cộng đồng doanh nghiệp. Bộ máy QLNN đối với PTDLBV được tổ chức từ Trung ương đến địa phương và ngày càng được hoàn thiện để phát huy hết chức năng quản lý của mình.

Cơ quan QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV là UBND các cấp, với sự tham mưu của VHTT&DL, cùng các sở ban ngành có liên quan như Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Công an, Sở Y tế,…. Sở VHTT&DL là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện QLNN về PTDL; chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố triển khai các nội dung phù hợp với chức năng, nhiệm vụ các sở, dan, ngành, địa phương


trong PTDL; chủ động nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách cần sửa đổi, bổ sung trong quá trình triển khai PTDL; tham mưu theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, định kỳ báo cáo UBND tỉnh về các kết quả PTDL.

Thực tế luôn biến đổi và phát triển không ngừng, điều đó khiến cho công tác quản lý cũng phải linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế. Trong quản lý du lịch, việc bám sát thực tế vận động và phát triển của ngành chính là những đòi hỏi khách quan; những động thái tích cực đem nguồn sinh khí mới, sức sống mới trong các lĩnh vực KDDL. HĐDL luôn sống động và biến đổi, đòi hỏi công tác quản lý du lịch cũng luôn phải biến đổi nhanh chóng, tích cực, chủ động và sáng tạo thích ứng với mọi diễn biến của kinh tế du lịch. Chính vì vậy, Luật Du lịch (2017) đã phân cấp rõ ràng hơn cho Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức năng QLNN về du lịch trên địa bàn, trong đó, UBND tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện QLNN về PTDL tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, kế hoạch, chính sách PTDL phù hợp với thực tế tại địa phương. Theo Luật Du lịch (2017) thì UBND tỉnh có những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

(1) Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh về du lịch của địa phương; hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng;

(2) Quản lý TNDL, khu du lịch, điểm du lịch, hoạt động KDDL và hướng dẫn du lịch trên địa bàn;

(3) Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, an toàn thực phẩm tại khu du lịch, điểm du lịch, nơi tập trung nhiều khách du lịch;

(4) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để bảo đảm môi trường du lịch thân thiện, lành mạnh và văn minh;

(5) Tổ chức bố trí nơi dừng, đỗ cho các phương tiện giao thông đã được cấp biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch để tiếp cận điểm tham quan du lịch, cơ sở lưu trú du lịch, tổ chức rà soát, lắp đặt biển báo, biển chỉ dẫn vào khu du lịch, điểm du lịch;

(5) Tổ chức tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của khách du lịch và thực hiện một số nhiệm vụ khác theo quy định.

Như vậy, QLNN cấp tỉnh là quản lý của cấp cao nhất trong QLNN địa phương. Và chủ thể quản lý ở cấp này được hiểu là chính quyền địa phương cấp tỉnh, quản lý thông qua các cơ quan chức năng liên quan đến HĐDL (chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm HĐND và UBNN tỉnh/TP trực thuộc trung ương trong đó luận án này đề cập tới việc UBND tỉnh phân công, giao nhiệm vụ cho Sở VHTT&DL và các Sở các sở, ban, ngành có liên quan). QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với


PTDLBV chịu sự QLNN trung ương, trong đó việc quản lý được thực hiện theo sự phân cấp như sau:

- Chính quyền địa phương cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của chính quyền trung ương. Đây vừa là cơ quan hành pháp, vừa là cơ quan hành chính của Nhà nước của địa phương cấp tỉnh. Thông thường, cơ quan này thực hiện chức năng QLNN về PTDL thông qua việc chỉ đạo và phối hợp hoạt động của tất cả các cơ quan chuyên môn có liên quan đến PTDL là Sở VHTT&DL và các sở, ban, ngành có liên quan....

- Các cơ quan cấp tỉnh quản lý chuyên ngành còn lại đều là cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền cấp tỉnh như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Giao thông vận tải, Công an tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội….có chức năng tham mưu, giúp chính quyền địa phương cấp tỉnh quản lý lĩnh vực tương ứng. Mặc dù không trực tiếp quản lý hoặc không phải là đơn vị chủ trì hoạt động QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDL mà có thể chỉ được giao chủ trì một số nhiệm vụ cụ thể nào đó trong các nhiệm vụ QLNN, và có nhiệm vụ phối hợp với Sở VHTT&DL trong quá trình quản lý PTDLBV của địa phương cấp tỉnh. Chính quyền cấp tỉnh và các cơ quan quản lý chuyên ngành căn cứ vào đặc thù của địa phương, sử dụng quyền lực, các công cụ luật pháp, kế hoạch hóa, chính sách kinh tế và các công cụ khác để cụ thể hóa các văn bản, chủ trương, cơ chế, chính sách quản lý tác động lên HĐDL của địa phương để hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển PTDLBV của địa phương cấp tỉnh.

Để thực hiện QLNN đối với PTDLBV, Sở VHTT&DL cần phải phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan như: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Giao thông vận tải, Công an tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ban Dân tộc, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Y tế, Sở Xây dựng, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch,…

Đối tượng QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV bao gồm TNDL; các HĐDL; khách du lịch; tổ chức, cá nhân KDDL…các HĐDL là kết quả của sự tương tác qua lại giữa khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, người dân địa phương và chính quyền địa phương.

2.2. Nguyên tắc, công cụ, phương pháp, nội dung và tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững

2.2.1. Nguyên tắc, công cụ, phương pháp quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững

2.2.1.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với pháut triển du lịch bền vững của một địa phương


Thứ nhất, đảm bảo sự thống nhất giữa tính chính trị và tính kinh tế, giữa tập trung và dân chủ trong QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV.

Thống nhất giữa tính chính trị và tính kinh tế trong QLNN địa phương đối với PTDLBV có nghĩa là đường lối, chính sách PTDL phải phản ánh được nhu cầu và quy luật phát triển của DL trong nền kinh tế hiện nay. Chỉ trong điều kiện đó, chính quyền địa phương cấp tỉnh mới có thể lãnh đạo, quản lý đối với PTDL có hiệu quả. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quan hệ đúng đắn giữa PTDL và các nhóm đối tượng khác trong xã hội.

Thống nhất giữa tập trung và dân chủ trong QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV có nghĩa là cần kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa việc tập trung và dân chủ trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng nhằm đảm bảo hoạt động kinh tế của các chủ thể tham gia HĐDL được đảm bảo quyền tự do (dân chủ), đồng thời, trong một chừng mực nhất định, các hoạt động KDDL có ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt tới lợi ích của nhà nước ở cấp địa phương - tỉnh. Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, cơ quan QLNN địa phương phải có kế hoạch chung trong PTDL; thống nhất trong ban hành chính sách liên quan tới PTDLBV tại địa phương; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các chủ thể tham gia HĐDL với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân; tăng cường sự phân cấp, phân quyền trong QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cấp cơ sở (xã, huyện) trong đề ra chủ trương chính sách PTDLBV phù hợp với điều kiện KT - XH của địa phương…

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV theo ngành và theo lãnh thổ. Trong đó, việc thực hiện QLNN theo ngành phải đảm bảo quản lý về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn của chính quyền cấp tỉnh đối với các chủ thể tham gia HĐDL. Việc QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV theo lãnh thổ phải đảm bảo tổ chức, điều hòa phối hợp hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia HĐDL trên địa bàn, đảm bảo việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và dự án PTDLBV theo cơ cấu hợp lý, có hiệu quả. Về cơ bản, việc kết hợp QLNN theo ngành và lãnh thổ đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ trên mọi lĩnh vực liên quan tới PTDLBVL nhằm tránh tư tưởng cục bộ địa phương của chính quyền các tỉnh.

Thứ ba, đảm bảo sự độc lập tương đối giữa QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV với quản lý các chủ thể tham gia HĐDL trên địa bàn. Cần phân biệt rõ chức năng QLNN của địa phương cấp tỉnh với chức năng của các chủ thể tham gia HĐDL. Nguyên tắc này đảm bảo tính độc lập kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Các chính sách của nhà nước địa


phương cấp tỉnh trong PTDLBV cần tôn trọng tính tự do kinh doanh và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia HĐDL trong nền kinh tế thị trường và trong khuôn khổ pháp luật cho phép, tránh dùng quyền lực nhà nước áp đặt, can thiệp sâu vào hoạt động của các chủ thể tham gia HĐDL làm thui chột tính năng động, sáng tạo và hạn chế hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Thứ tư, kết hợp hài hòa các lợi ích trong xã hội nhằm đảm bảo tính định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở địa phương cấp tỉnh nói chung, và PTBVDL nói riêng. Nội dung của nguyên tắc này cho thấy Nhà nước địa phương cấp tỉnh khi thực hiện đường lối PTDL đúng đắn, cần vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đặc điểm của địa phương; xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch PTDL chuẩn xác; vận dụng các công cụ kinh tế, đòn bẩy kinh tế để phát huy hết tiềm năng, cơ hội để PTDLBV của địa phương trong giai đoạn hiện nay.

Thứ năm, đảm bảo tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả, công bằng. Đảm bảo hiệu lực thể hiện ở việc cơ quan QLNN của địa phương cấp tỉnh ban hành chính sách PTDL phải được thực thi và đạt được mục tiêu trong thực tiễn. Đảm bảo hiệu quả kinh tế thể hiện ở kết quả đầu ra phải nhỏ hơn chi phí bỏ ra xây dựng và thực thi chính sách PTDLBV. Đảm bảo kinh tế yêu cầu việc quản lý phải dựa trên huy động được đầu vào với chi phí thấp nhất. Tính công bằng được thể hiện ở việc phân phối lợi ích từ việc PTDLBV cho các đối tượng, các nhóm lợi ích liên quan trong xã hội.

2.2.1.2. Công cụ quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch bền vững của địa phương cấp tỉnh

Công cụ quản lý đối với PTDLBV là những phương tiện cần thiết mà qua đó Nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng) sử dụng để điều tiết, hướng dẫn, kiểm soát đối với toàn bộ HĐDL. Chính nhờ các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn các quyết định quản lý mà Nhà nước truyền tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân tham gia vào các HĐDL. Các công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng để QLNN đối với PTDLBV là: kế hoạch hoá; các chính sách kinh tế và hệ thống pháp luật.

- Công cụ kế hoạch hóa

Kế hoạch hoá là công cụ quan trọng hàng đầu trong quản lý kinh tế nói chung và QLNN đối với PTDLBV nói riêng. Không có kế hoạch thì không thể định hướng phát triển trị trường. Có nhiều loại kế hoạch khác nhau như kế hoạch ngắn hạn; kế hoạch trung hạn; kế hoạch dài hạn, kế hoạch của Trung ương và địa phương,…Nội dung của kế hoạch hoá du lịch bao gồm: Việc hoạch định các chiến lược và quy hoạch PTDL, dự báo các xu hướng phát triển thị trường, các chương

Xem tất cả 244 trang.

Ngày đăng: 30/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí