về xác suất, di truyền, độ lệch chuẩn, hệ số tương quan của khoa học thống kê khởi xướng từ thế kỷ trước, đặc biệt các khái niệm thống kê của nhà nhân chủng học Francis Galton (1822-1911) và Karl Pearson, để thiết lập và tiến hành trắc nghiệm, chẩn đoán tâm lý nghề nghiệp trong tư vấn hướng nghiệp [40].
Tiếp theo, Carl Rogers là nhà tâm lý học, tâm lý trị liệu hàng đầu của thế kỷ 20, đã đưa ngành tư vấn tâm lý lên địa vị quan trọng với phương pháp tư vấn thân chủ trọng tâm và học trò là trung tâm trong tư vấn học đường. Một trong những nghiên cứu của Carl Rogers có giá trị to lớn, đánh dấu sự ra đời của ngành, nghề tham vấn đó là cuốn "Tham vấn và tâm lý trị liệu" (Counseling and Psychotherapy) được xuất bản đầu năm 1942. Ông cho rằng, tư vấn học đường có ý nghĩa lắng nghe, động viên, giúp đỡ giải quyết các khó khăn trong học tập và chia sẻ tâm tư tình cảm, giải toả stress, cải thiện môi trường giáo dục, con người nhân ái, nhân văn được tôn trọng. Với ông, tham vấn được thay đổi theo hướng thân chủ - trọng tâm, sử dụng phương pháp gián tiếp khi tiếp cận với thân chủ, tin tưởng vào khả năng bật dậy của con người. Thông qua tiếp cận, sẽ cung cấp cho thân chủ những điều kiện cần thiết để có thể đối diện với chính mình, trên cơ sở đó có thể giải tỏa những bế tắc của bản thân [39].
Vào khoảng cuối những năm 60 và đầu những năm 70 của thế kỉ 20, Norm Gysbers và các cộng sự, tiểu bang Missouri, đã chứng minh mối quan hệ thiết thực giữa tư vấn học đường và sự thành đạt của học sinh, sinh viên; đã đưa tư vấn học đường từ một nghề nghiệp ít ai để ý đến trở thành một hoạt động thiết yếu mang tính chiến lược và có mục tiêu hệ thống trong chương trình tư vấn học đường cho mọi học sinh từ tiểu học đến trung học [27].
Ở Pháp, đầu thế kỷ 20 có một tổ chức có chức năng hướng dẫn tư vấn viên/nhà tâm lý, trao đổi thông tin, phát triển sự nghiệp tư vấn, tổ chức và tham gia các hội thảo quốc gia và quốc tế về tư vấn và tâm lý, đó là Hiệp hội tư vấn định hướng tâm lý Pháp. Năm 1928, đã có các khóa đào tạo tư vấn hướng nghiệp. Sau đó là các khóa tư vấn hướng học và hướng nghiệp. Đến
năm 1972 là khóa đào tạo tư vấn viên định hướng. Đến năm 1991, các học sinh sau khi tốt nghiệp được chính thức công nhận bằng Tâm lý học [27].
Vào những năm 1970, Planders, thuộc Vương quốc Bỉ đã thành lập hệ thống các trung tâm hỗ trợ tâm lý, y tế, xã hội (PMS) nhằm mục đích hỗ trợ HS từ mẫu giáo đến trung học. Sau gần 30 năm hoạt động, đến năm 1999, trên cơ sở sáp nhập PMS với các trung tâm y tế học đường thành trung tâm tư vấn giáo dục hoạt động với kinh phí do nhà nước cấp ngân sách. Từ đây giữa chuyên viên tư vấn học đường và giáo viên có sự hợp tác thích hợp, chăm lo về mặt học tập, hướng nghiệp, y tế và tình hình phát triển tâm lý xã hội cho từng HS, nhất là những HS có vấn đề cần hỗ trợ [27].
Ở Singapore, đã thành lập Trung tâm tư vấn từ năm 1966. Đến năm 1976, thành lập Trung tâm Dịch vụ Chăm sóc HS. Chức năng của trung tâm này là giúp các HS phát huy tối đa tiềm năng của bản thân và có khả năng vượt qua những khó khăn trong học tập và đời sống, ngoài ra, trung tâm còn đào tạo các tư vấn viên là giáo viên (theo giáo trình của Bộ Giáo dục), do Phòng đào tạo nhân viên của Bộ Giáo dục tổ chức. Nhiệm vụ chủ yếu của trung tâm bao gồm: Chăm sóc tình huống và tư vấn gia đình; dịch vụ tâm lý giáo dục; chăm sóc thanh thiếu niên phạm pháp; cố vấn cho sinh viên; huấn luyện, phát triển tình nguyện viên [27]...
1.1.1.2. Tư vấn học đường ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tư vấn học đường ban đầu được thực hiện với nội dung giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường. Năm 1975 - 1976, theo yêu cầu của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, ông Phạm Ngọc Luận và cộng sự tìm kiếm, vận dụng 12 bộ họa đồ nghề và tư vấn cho trên 300 thương binh.
Tháng 3/1991: Trung tâm Lao động - Hướng nghiệp được thành lập và cho ra đời cuốn tài liệu "Tư vấn nghề cho HS PT”, mở hai lớp tập huấn cho 200 cán bộ phụ trách tư vấn ở các trung tâm Kĩ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp trên cả nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động tư vấn tâm lý cho học sinh các trường trung học cơ sở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam - 1
- Quản lý hoạt động tư vấn tâm lý cho học sinh các trường trung học cơ sở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam - 2
- Hoạt Động Tvtl Cho Hs Ở Trường Trung Học Cơ Sở
- Giám Sát, Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Và Sơ Kết, Tổng Kết Hoạt Động Tvtl
- Thực Trạng Hoạt Động Tvtl Cho Hs Các Trường Thcs Huyện Kim Bảng, Tỉnh Hà Nam
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Sau đó, một số công trình tiêu biểu về hướng nghiệp được ra đời như: Sinh hoạt hướng nghiệp 12 (1994), Sinh hoạt hướng nghiệp 11 (1996) của Hoàng Kiện, Nguyễn Thế Trường, Phạm Tất Dong; Sự lựa chọn tương lai, Tư vấn hướng nghiệp (2000) của Phạm Tất Dong , tài liệu "Những nẻo đường lập nghiệp" do Đặng Danh Ánh chủ biên (2003) giới thiệu một số ngành nghề nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và những gương thành đạt về lập thân, lập nghiệp của các bạn trẻ,
Năm 2005, Khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đưa ra nghiên cứu cho rằng học sinh phổ thông có nhu cầu tư vấn rất lớn nhưng lực lượng tư vấn chủ yếu là giáo viên, trong nhà trường cần có các nhà tư vấn để giúp học sinh giải quyết những khó khăn về tâm lý. Nghiên cứu cũng đề xuất cần có các phòng tư vấn trong các nhà trường phổ thông.
Năm 2009, GS.TS. Trần Thị Minh Đức đã xuất bản Giáo trình "Tham vấn tâm lý", trong đó xác định mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ được xây dựng trên nền tảng của sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, từ đó đưa ra những quan điểm giúp người học có cách nhìn đúng đắn về thân chủ và các vấn đề của họ, cách nhìn chuyên nghiệp về nhà tham vấn với những năng lực và phẩm chất trong thực hành nghề; Giáo trình cũng hướng dẫn một số kỹ năng cơ bản, quy trình trong tham vấn và giới thiệu để người học thực hành giải quyết các tình huống cụ thể [19].
Gần đây, có nhiều nghiên cứu khoa học về tư vấn tâm lý, nhất là tư vấn tâm lý cho HS trong nhà trường phổ thông như: PGS.TS. Lê Sơn với bài "Nhiệm vụ của tư vấn học đường" đăng trên Tạp chí Thông tin giáo dục (2018), trong đó chỉ rõ nhiệm vụ của tư vấn học đường, phân loại tư vấn viên và nhiệm vụ của tư vấn viên trong nhà trường, mô hình và hoạt động của phòng tư vấn tâm lý cho HS [44]; các công trình nghiên cứu tâm lý học đường mục đích phục vụ HS, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, phát triển kỹ năng học tập và kỹ năng sống cho HS của nhóm nghiên cứu khoa học do TS Nguyễn Thị Tứ là chủ nhiệm....
Có thể nhận thấy rằng, trên thế giới, hoạt động tư vấn đã được nghiên cứu và ứng dụng mang tính chuyên nghiệp qua một quá trình tương đối lâu dài. Ở Việt Nam, tư vấn cũng được quan tâm từ khá sớm. Tuy vậy, nhìn chung, chưa có nhiều nghiên cứu về tư vấn tâm lý học đường, trong đó đi sâu tìm hiểu đối với đối tượng HS THCS với những đặc điểm tâm lý khác biệt và những hoạt động mang tính đặc thù của lứa tuổi thiếu niên và của nhà trường THCS, đề xuất các giải pháp giúp đỡ, hỗ trợ HS có khả năng ứng xử, giải quyết các tình huống, các mối quan hệ nói chung để tham gia quá trình học tập được thuận lợi và đạt kết quả, góp phần cải thiện môi trường giáo dục, đem lại lợi ích thiết thực, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường.
1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý hoạt động TVTL cho HS trong nhà trường
Các nghiên cứu về khoa học quản lý giáo dục hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu, đây là nền tảng khoa học để triển khai các nghiên cứu trong công tác quản lý nhà trường. Công trình nghiên cứu về “Những vấn đề quản lý trường học” của tập thể các tác giả, chủ biên là P.V.Zimi, M.I.Konadop, N.I.Xaxerdotop [30], các tác giả đã đưa vào công trình của mình những nguyên tắc quản lý của Lênin về sự lãnh đạo nền giáo dục nhân dân để xây dựng cơ sở lý luận khoa học QLGD; Trong công trình nghiên cứu “Cẩm nang nâng cao năng lực quản lý nhà trường”, nhóm các tác giả Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Quang Kính, Phạm Đỗ Nhật Tiến [29] tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà trường và chỉ ra các biện pháp để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà trường cho chủ thể quản lý (Hiệu trưởng); Trong cuốn “Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục”, công bố năm 2010, tác giả Trần Kiểm đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản, cần thiết cho chủ thể quản lý vận dụng trong quá trình quản lý nhà trường [25].
Tuy nhiên vấn đề về giáo dục và quản lý hoạt động TVTL cho HS
trong nhà trường phổ thông là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ, là sự kết hợp nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục và một số ngành khác như tâm lý học, xã hội học và hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Quản lý hoạt động TVTL cho HS các trường THCS huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam”. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu với mong muốn rằng kết quả nghiên cứu sẽ ứng dụng và triển khai hữu ích tại các trường THCS huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam nói riêng và cấp THCS nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.2.1. Quản lý
Thuật ngữ “quản lý” đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước định nghĩa theo các cách tiếp cận khác nhau.
Trong Từ điển Tiếng Việt, quản lý là “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [33].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hoá, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [17].
Tác giả Đặng Thành Hưng đưa ra khái niệm quản lý: “Quản lý là một dạng lao động đặc biệt nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp lao động của người khác hoặc của nhiều người khác trong cùng tổ chức hoặc cùng công việc nhằm thay đổi hành vi và ý thức của họ, định hướng và tăng hiệu quả lao động của họ, để đạt mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích của công việc cùng sự thỏa mãn của những người tham gia” [24].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: quản lý là thuật ngữ chỉ các quá trình “Quản” và “Lí” tích hợp vào nhau nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục tiêu đã định. “Quản” là cai quản, giữ gìn, duy trì tổ chức, hệ thống ở trạng thái ổn định. “Lí” là sắp xếp, điều chỉnh, đổi mới, đưa tổ chức vào thế vận động, phát triển. Như vậy, quản lý chính là quá trình duy trì, vận hành tổ chức hay hệ thống ổn định để phát triển và tạo ra sự phát triển trong thế ổn định [3].
Theo cách tiếp cận hệ thống: quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (hay đối tượng quản lý) nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động của con người trong các quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục đích đã định.
Quan niệm truyền thống: quản lý là quá trình tác động có ý thức của chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác định.
Quan niệm hiện nay: quản lý là hoạt động (của chủ thể quản lý) nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu (của đối tượng quản lý).
Như vậy, có thể thấy rằng những khái niệm, quan niệm về quản lý nêu trên đều tương đồng ở nội dung cơ bản, tuy có khác nhau về cách diễn đạt. Bất cứ một tổ chức dù có mục đích gì và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của mình.
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái niệm QL sau đây: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm mục tiêu đề ra” [23]. Khái niệm này đã xác định đầy đủ nội dung, bản chất của quản lý:
- QL là tác động có hướng đích và có mục tiêu xác định.
- QL thể hiện mối quan hệ mệnh lệnh giữa cấp trên với cấp dưới, có tính bắt buộc phải thực hiện giữa chủ thể QL và đối tượng QL, hay còn gọi là quan hệ ra lệnh - phục tùng.
- Sự tác động trong QL mang tính chủ quan, tuy nhiên phải đảm bảo những quy định chung mang tính khách quan.
- QL là sự vận động của thông tin.
- Trong QL, giữa chủ thể QL với đối tượng QL tồn tại khả năng thích nghi.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Xét về cấp độc, thuật ngữ “quản lý giáo dục” được quan niệm ở hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô là quản lý một hoặc một loạt đối tượng có quy mô lớn, bao quát toàn bộ hệ thống. Trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, và trong mỗi hệ thống con lại có hoạt động quản lý, đó là quản lý vi mô. Tuy nhiên việc phân chia quản lý vĩ mô và vi mô chỉ là tương đối. Chẳng hạn, quản lý ở cấp Sở GD&ĐT, nếu đặt trong phạm vi toàn quốc thì chỉ là cấp vi mô so với Bộ GD&ĐT (cấp vĩ mô); song nếu đặt trong phạm vi một tỉnh/ thành phố thì lại là cấp vĩ mô so với quản lý của Phòng GD&ĐT.
- “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí GD của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [15].
- “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [25].
Những cách hiểu trên đây thực chất là những quan điểm chính trị-xã hội về nhiệm vụ của quản lý giáo dục. Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng định nghĩa sau: “Quản lý giáo dục là dạng lao động xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển hệ thống giáo dục và các thành tố của nó, định hướng và phối hợp lao động của những người tham gia công tác giáo dục để đạt được mục tiêu giáo dục và mục tiêu phát triển giáo dục, dựa trên thể chế giáo dục và các nguồn lực giáo dục” [12].
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Trong luận văn này, nhà trường được đề cập đến là nhà trường phổ thông nói chung, do đó chúng tôi sử dụng khái niệm sau đây: “Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội, nơi tổ chức, thực hiện và quản lý quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người được giáo dục (người học) và người giáo dục (người dạy). Trong quá trình giáo dục, hoạt động của người học (hoạt động học theo nghĩa rộng) và hoạt động của người dạy (hoạt động học theo nghĩa rộng) luôn gắn bó, tương tác, hỗ trợ nhau, tựa vào nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục theo yêu cầu của xã hội” [12].
Theo quan niệm quản lý cấp vi mô, quản lý nhà trường (quản lý trường học) là tổ chức các hoạt động của nhà giáo dục (người thầy, người dạy) và các hoạt động của người được giáo dục (người học) để thực hiện mục tiêu của nhà trường theo định hướng và yêu cầu của các cấp quản lý giáo dục.
1.2.2. Tư vấn, TVTL học đường
1.1.2.1. Khái niệm tư vấn
Tư vấn - tiếng Anh là Cousultation - được xem là quá trình tham khảo về lời khuyên hay sự trao đổi về vấn đề nào đó để đi đến một quyết định.
Theo từ điển Tiếng Việt: Tư vấn là “Góp ý kiến về những vấn đề hỏi đến nhưng không có quyền quyết định” [33].
Theo tác giả Trần Thị Minh Đức, TVTL là: “Một quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chuyên môn và kĩ năng tham vấn, có các phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận) với thân chủ (còn gọi là khách hàng- người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ). Thông qua các kĩ năng trao đổi và chia sẻ tâm tình (dựa trên các nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình” [20].