xử sơ chung thẩm gồm 3 Thẩm phán và 2 Hội thẩm. Không phải tất cả các giai đoạn của quá trình xét xử đều có Hội thẩm nhân dân tham gia.
Theo xu hướng chung, thành phần Thẩm phán trong các hội đồng xét xử phải chiếm đa số. Bởi lẽ, trong thực tế hiện nay, so với Thẩm phán thì trình độ pháp lý của Hội thẩm còn hạn chế. Hội thẩm được bầu từ những người có uy tín, phẩm chất tốt kể cả những người đang công tác hoặc nghỉ hưu. Còn theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993 thì, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm từ những người "trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa có đủ sức khoẻ, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao". Do đó, nếu trong hội đồng xét xử, thành phần của Hội thẩm chiếm tỉ lệ lớn hơn so với Thẩm phán thì việc biểu quyết theo đa số rất có thể dẫn đến tính thiếu chính xác của bản án, quyết định của Toà án. Và trong trường hợp này, coi như Thẩm phán chỉ đóng vai trò "phụ" vì việc quyết định đã nghiêng về số Hội thẩm chiếm đa số. Hơn nữa về mặt này, không có đủ cơ sở để khẳng định rằng, trong mọi trường hợp niềm tin nội tâm của Thẩm phán và Hội thẩm là giống nhau. Do đó, việc biểu quyết khác nhau là đương nhiên.
Về nguyên tắc, qui định Hội thẩm tham gia hội đồng xét xử là đảm bảo tính dân chủ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Nhưng trong hội đồng xét xử, thành phần Hội thẩm lớn hơn (hoặc bằng) Thẩm phán thì sẽ không hợp lý. "Nói chung, không nên đặt quá nặng sự tham gia của Hội thẩm như một biểu hiện hình thức của tính dân chủ" [35,169] mà mục tiêu căn bản là loại bỏ các yếu tố bất hợp lý để có được một bản án, quyết định chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bản án, quyết định đó phải được bị cáo chấp thuận, "tâm phục, khẩu phục", quần chúng nhân dân đồng tình và như vậy, quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo mới được bảo đảm.
- "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 17 BLTTHS) . Xét xử độc lập là nguyên tắc vô cùng quan trọng bảo đảm cho việc phán quyết của Toà án được đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm căn cứ vào tình tiết vụ án, kể cả tình tiết buộc tội và tình tiết vô tội, xem xét các ý kiến tranh tụng tại phiên toà, đồng thời căn cứ vào các qui định của pháp luật để ra bản
án, quyết định mà không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay bất cứ cơ quan, cá nhân nào.
Trong xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cũng độc lập với nhau. Thẩm phán biểu quyết sau cùng, các thành viên của Hội đồng xét xử là Thẩm phán, Hội thẩm có quyền bảo lưu ý kiến riêng của mình và để vào hồ sơ. Nguyên tắc độc lập còn được thể hiện ở chỗ: các cấp Toà án độc lập với nhau. Toà án cấp trên không được quyết định trước cho Toà án cấp dưới phải xét xử cụ thể thế nào.
Nguyên tắc độc lập xét xử tạo cho Toà án không bị ràng buộc bởi bất cứ ý kiến hay tác động của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, không thiên vị với ai nhằm xem xét tội lỗi của bị cáo một cách khách quan nhất.
Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có quan hệ biện chứng với nhau. Nguyên tắc này loại trừ tính độc lập tuyệt đối vượt ra ngoài pháp luật, lạm quyền của Toà án vì họ phải tuân theo pháp luật. Độc lập để tuân theo pháp luật và vì tuân theo pháp luật mà độc lập.
Tuy nhiên luật cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ qui định Toà án xét xử độc lập mà chưa khẳng định dứt khoát, cụ thể việc cấm mọi cơ quan tổ chức cá nhân can thiệp vào quá trình xét xử vụ án.
- Theo Điều 134 Hiến pháp, Điều 19 BLTTHS, Toà án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định.
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Về Tội Phạm Và Hình Phạt Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Phạm Tội.
- Quy Định Hình Phạt, Mục Đích, Hệ Thống Hình Phạt
- Quy Định Hệ Thống Chế Tài Đối Với Các Cấu Thành Tội Phạm
- Các Nguyên Tắc Quyết Định Áp Dụng Hình Phạt (Quyết Định Hình Phạt)
- Quyền Được Coi Là Vô Tội Khi Chưa Có Bản Án Kết Tội Của Toà Án Đã Có Hiệu Lực Pháp Luật.
- Bảo Đảm Thực Hiện Chính Sách Hình Sự Của Đảng, Nhà Nước Ta.
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Nguyên tắc này không những bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án có hiệu quả giáo dục cao, thu hút lực lượng đấu tranh phòng chống tội phạm mà còn nhằm tạo điều kiện để nhân dân giám sát hoạt động của cơ quan Toà án, có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của Toà án trước bị cáo và đối với nhân dân.
Toà án xét xử công khai cũng có nghĩa là mọi người đều có quyền tham dự phiên toà (trừ những trường hợp do luật định: người vi phạm nội qui phiên toà). Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay qui định trẻ em dưới 16 tuổi không được tham dự phiên toà, trừ trường hợp được Toà án triệu tập đến để xét hỏi (Điều 171 BLTTHS) là chưa hợp lý. Bởi lẽ, trong tình hình thực tế hiện nay, số trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Mà phiên
toà không thể không mang tính giáo dục cao. Do đó, khi người dưới 16 tuổi muốn vào tham dự phiên toà thì nên được chấp nhận để họ có thêm điều kiện hiểu biết về phòng, chống tội phạm. Liên quan đến vấn đề này, khoản 4 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: "Những người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án" cũng còn chưa hợp lý, ở chỗ: "phòng xử án" không phải chỉ dành riêng cho xử án và càng không phải lúc nào cũng xử án. Do đó cấm họ vào phòng không có ý nghĩa hay nói cách khác là chưa chính xác.
Toà án xét xử công khai nhưng trong trường hợp đặc biệt cần giữ gìn bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội thì xét xử kín. Song bản án, quyết định của quá trình xét xử kín vẫn phải được công khai. Như vậy, tính minh bạch, cụ thể của bản án, quyết định vẫn được bảo đảm. Nguyên tắc này cũng tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, khiếu nại của mình.
- Một trong những quyền quan trọng nhất của bị cáo là quyền bào chữa. Quyền này của bị cáo đồng thời cũng là nguyên tắc quan trọng được qui định tại Điều 132 Hiến pháp, Điều 12 BLTTHS Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Nguyên tắc này bảo đảm cho bị cáo quyền chống lại việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Nó có ý nghĩa to lớn và là điều kiện thiết thực để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đồng thời cũng là điều kiện để Toà án xem xét một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ đối với vụ án.
Nguyên tắc này trước hết là quyền tự bào chữa của bị cáo. Quyền này bao gồm nhiều việc, trong đó có: đưa ra chứng cứ, nhận xét chứng cứ, đề xuất, thỉnh cầu, tranh luận trước Toà, với mục đích là chống lại việc buộc tội hoặc gỡ tội. Nhưng do vị thế của bị cáo, điều kiện của bị cáo thường hạn chế nên pháp luật còn qui định cho bị cáo được quyền nhờ người khác bào chữa. Người bào chữa có quyền tham gia, tranh luận tại phiên toà, đồng thời có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do luật định để chứng minh bị cáo vô tội hoặc làm sáng tỏ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phân tích, đánh giá chứng cứ, kiến nghị với Toà án về việc áp dụng pháp luật, kiến nghị với Toà án về điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tuy nhiên, luật hình sự cũng qui định những trường hợp mà nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Toà án phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ (khoản 2 Điều 37 BLTTHS). Người bào chữa do bị cáo lựa chọn và họ cũng có quyền từ chối việc cử người này hay người khác bào chữa cho họ.
Bào chữa là quyền của bị cáo do đó, nó đồng thời cũng là nghĩa vụ của Toà án, phải bảo đảm cho họ thực hiện quyền đó. Và bởi vì, bào chữa chỉ là quyền của bị cáo chứ không phải nghĩa vụ của họ. Nên "bị cáo không có trách nhiệm giúp các cơ quan điều tra, tố tụng, xét xử trong việc buộc tội chính mình hoặc làm sáng tỏ các tình tiết khác có lợi cho họ" [25,41]. Bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh họ vô tội, kể cả những lời nhận tội của bị cáo cũng không thể là căn cứ duy nhất để Toà án kết tội bị cáo.
Song, việc qui định thời điểm tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng như hiện nay (từ khởi tố bị can trong trường hợp bình thường hoặc từ khi kết thúc điều tra
- trong những trường hợp đặc biệt), suy cho cùng là chưa tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bị cáo. Bởi vì, chắc chắn là thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của việc bào chữa cho bị cáo. Người bào chữa tham gia sớm sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với việc tham gia muộn. Tham gia sớm, họ có điều kiện tìm hiểu cụ thể các tình tiết của vụ án, thu thập các chứng cứ, chuẩn bị cho việc bào chữa và sự tham gia của người bào chữa "ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự là một đảm bảo quan trọng của quyền con người đối với các bị can" [59,10], bị cáo.
Mặt khác, phạm vi những người có thể được cấp giấy chứng nhận là người bào chữa cho bị cáo theo qui định tại Điều 35 BLTTHS hiện nay là hơi hẹp, chỉ gồm 3 đối tượng là: Luật sư, bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị cáo. Ngoài 3 đối tượng trên, anh em, bạn bè, người thân thích... của bị cáo - người được coi chưa có tội cũng không thể là người bào chữa cho bị cáo được. Đó là chưa tạo mọi điều kiện thuận lợi để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chẳng lẽ, hai người bạn có một thời tắt lửa tối đèn có nhau, đùm bọc nhau, một người trong đó bị truy tố, người kia có hiểu biết về pháp luật nhưng không phải là luật sư cũng không phải là bào chữa viên nhân dân (vì qui chế các tổ chức này chỉ cho phép một số đối tượng nhất định tham gia) lại không được
chấp nhận tham gia bào chữa cho bạn mình. Và chắc hẳn rằng người bạn kia sẽ thấu hiểu điều kiện, hoàn cảnh, "nhân thân" của bị cáo hơn luật sư "được" mời khác.
Bào chữa (tự bào chữa) là vấn đề vô cùng quan trọng, cốt lõi trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử án hình sự. Điều này càng có ý nghĩa khi mà trong thực tế còn tồn tại quan niệm "án tại hồ sơ", "Thẩm phán trở nên người trực diện đấu tranh với các bị cáo, hướng bị cáo vào tội danh đã được xác định trong bản cáo trạng của Viện kiểm sát dựa trên các chứng cứ và kết quả điều tra. án tại hồ sơ vô hình chung đã đặt bị cáo phải đối mặt với hai kiểu luận tội, luận tội của người giữ quyền công tố tại phiên toà và luận tội của bản thân các vị Thẩm phán. Tình trạng này đã không phát huy được quyền bào chữa của bị cáo và làm cho các hoạt động luật sư không thật sự phát huy được tác dụng và hiệu quả mong muốn [59,11].
Vì vậy, hoàn thiện các qui định về bào chữa và áp dụng có hiệu quả nó trong thực tế là điều kiện quan trọng bảo đảm quyền con người của bị cáo.
- Để tạo cho việc bào chữa của bị cáo được thuận lợi, Điều 133 Hiến pháp và Điều 21 BLTTHS qui định: Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án. Đây là nghĩa vụ của Toà án, đồng thời là quyền bình đẳng của công dân tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Việc xét xử được tiến hành thực hiện bằng tiếng Việt. Song, người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của mình thông qua phiên dịch tại phiên toà. Bởi vì ngôn ngữ bất đồng thường tạo ra tâm lý tự ti, mặc cảm và khó khăn trong việc trao đổi, đề xuất nguyện vọng, tranh luận trước Toà.
Với qui định này, pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo trình bày được những ý nghĩ, quan điểm của mình, đồng thời thực hiện quyền bào chữa của họ.
Vai trò của phiên dịch là không thể phủ nhận, song các văn bản tố tụng được giao cho bị cáo lại bằng tiếng Việt nên ít nhiều còn gây khó khăn cho việc tìm hiểu, nghiên cứu nó của bị cáo.
- Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, Điều 2 BLTTHS qui định: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo qui định của bộ luật này". Đây là một nguyên tắc vừa khẳng định nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng vừa tuyên bố bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị cáo rằng: quá trình tố tụng phải được diễn ra theo đúng qui định của pháp luật mà không theo ý muốn chủ quan của bất cứ người nào. Có nghĩa là trong quá trình xét xử, Toà án chỉ được làm những gì pháp luật qui định, cho phép. Đồng thời Toà án các cấp có nghĩa vụ tuân thủ trình tự, thủ tục xét xử mà pháp luật qui định. Chẳng hạn: thẩm quyền xét xử, thủ tục tố tụng tại phiên toà, xét xử theo hai cấp, giám đốc việc xét xử...
Hệ thống các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự "vốn là thành tựu, là kinh nghiệm đã được đánh giá, đúc kết, đã qui định những bước đi tuần tự mà nhờ đó, người tiến hành tố tụng có đầy đủ điều kiện để tìm ra chân lý" [71,378].
Vì vậy, việc xét xử phải được tiến hành theo qui định của pháp luật là vừa bảo đảm tính pháp chế, vừa là cơ sở, cách thức cho Toà án thực hiện chức năng của mình.
Qui định này vừa nhằm ngăn ngừa sự tuỳ tiện, cẩu thả trong xét xử, vừa tạo điều kiện cho việc tìm ra sự thật của vụ án, đồng thời xây dựng được hành lang pháp lý cho việc bảo đảm quyền, lợi ích của bị cáo khỏi bị nhũng nhiễu, xâm hại trái pháp luật.
- Hầu hết các bị cáo là công dân (trừ trường hợp rất hãn hữu, là người không quốc tịch, người bị tước quyền công dân) nên họ có quyền và nghĩa vụ của mình. Quyền và nghĩa vụ đó được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Do đó, cơ quan xét xử, "trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa" (Điều 3 BLTTHS).
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là nguyên tắc quan trọng trong quá trình xét xử án hình sự.
Nguyên tắc này xuất phát từ qui định của đạo luật cơ bản của Nhà nước ta: "ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được qui định trong hiến pháp và pháp luật" (Điều 50 Hiến pháp 1992). Các quyền cơ bản đó là: quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại tố cáo v.v...
Các quyền đó của bị cáo là quyền công dân. Các quyền đó được bảo vệ tránh mọi hành vi xâm hại trái pháp luật. Pháp luật cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm của bị cáo.
Pháp luật chỉ cho phép trong những trường hợp cần thiết, các cơ quan tố tụng có quyền áp dụng những biện pháp ngăn chặn như khám xét, kê biên tài sản, bắt, tạm giam.
Nhưng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm, mức độ nguy hiểm của người phạm tội và phải được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự qui định chặt chẽ căn cứ, thẩm quyền, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc, do đó các cơ quan tố tụng có nghĩa vụ phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng và kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết nữa (Điều 71, 121, 152 BLTTHS).
Điều 159 BLTTHS quy định: việc xét xử được thực hiện trực tiếp, bằng lời nói và liên tục. Xét xử trực tiếp là Toà án xem xét trực tiếp những chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ. Do đó, những chứng cứ được Toà án xem xét, chấp nhận mới là những chứng cứ có giá trị pháp lý cho việc giải quyết vụ án. Xét xử trực tiếp bằng cách hỏi và nghe ý kiến của các bên. Vì vậy, pháp luật qui định sự có mặt của các bên là bắt buộc (trừ trường hợp đặc biệt). Chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày được chính xác những nhận xét, suy nghĩ, ý tưởng của mình hay nói cụ thể, mới có thể tự bảo vệ được cho mình. Xét xử liên tục nhằm tạo cho Toà án tập trung giải quyết vụ án đồng thời các bên tham gia phiên toà cũng có điều kiện bảo vệ mình một cách có hệ thống.
Xét xử liên tục yêu cầu thành viên Hội đồng xét xử không được thay đổi. Qui định này không áp dụng đối với kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà. Điều này
cũng cần được xem xét vì vai trò của kiểm sát viên rất quan trọng, có quyền thay đổi cáo trạng, rút quyết định truy tố... Nếu họ tham gia liên tục sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho quá trình giải quyết vụ án.
- Khi tiến hành xét xử, Toà án phải bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Nguyên tắc này được qui định tại Điều 52 Hiến pháp và Điều 4, Điều 20 BLTTHS. Mọi công dân, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, thành phần, địa vị xã hội đều bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật là "thước đo" chung cho tất cả mọi người thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Bất cứ ai phạm tội cũng đều bị xử lý theo trình tự, thủ tục thống nhất của pháp luật.
Mọi người tham gia tố tụng đều được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ ngang nhau. Tham gia vào quá trình xét xử, kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa có quyền bình đẳng, tức là có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà. Điều này khẳng định quyền dân chủ, bình đẳng giữa các bên và tạo cho Toà án xét xử độc lập
Song, rất tiếc rằng, trên thực tế không phải bất kỳ ở đâu hay lúc nào quyền bình đẳng của bị cáo - một bên quan trọng tham gia phiên toà cũng được tôn trọng. Cũng còn những trường hợp Toà án nghiêng về phía Viện Kiểm sát để truy tội bị cáo. Như vậy, cục diện tại phiên toà tạo ra tình thế bất lợi hơn cho bị cáo. Thế là, nguyên tắc bình đẳng chẳng những không được tôn trọng, bảo đảm mà còn bị vi phạm. Cho đến nay, pháp luật chưa có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này.
- Trên thực tế, các vụ án xảy ra rất đa dạng, lúc tinh vi, lúc trắng trợn và thường thì những người phạm tội luôn che dấu hành vi phạm tội của mình bằng nhiều biện pháp khác nhau nhằm đánh lạc hướng dư luận và các cơ quan chức năng. Hơn nữa, việc tiến hành tố tụng bao giờ cũng diễn ra sau so với tội phạm cho nên dễ dẫn đến có những đánh giá, mô tả về tội phạm sai lệch với những gì đã xảy ra trong thực tế. Song các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải xác định sự thật của vụ án (Điều 11 BLTTHS). Điều này tạo cơ sở cho việc bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Thực tiễn xét xử của Toà án qua các năm cho thấy, qua phiên toà, nhiều bị cáo đã được tuyên bố vô tội.