Một Số Vấn Đề Lý Luận Về Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Trung Học Phổ Thông

học kỹ năng tự học. Đồng thời cũng đề ra một số biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động tự học của học sinh.

Gần đây, một số luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ có đề cập đến vấn đề tự học ở những khía cạnh khác nhau. Quản lý hoạt động tự học trong các nhà trường phổ thông đã có nhiều luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục nghiên cứu như: Tác giả Phạm Quang Bảo (2009) “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hóa I - Bộ Công An”; Nguyễn Thu Hà (2011) “Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động tự học đối với sinh viên Học viện Quản lý giáo dục”; Phạm Văn Liên (2012) “Biện pháp quản lý tự học của học sinh THPT huyện Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi”; Quách Tân Bình (2015) “Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường THPT Lê Ích Mộc, thành phố Hải Phòng”; …Tuy nhiên vấn đề quản lý hoạt động tự học của học sinh trường THPT Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến do đó chưa giải quyết hết đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy đề tài nghiên cứu "Quản lý hoạt động tự học của học sinh trường THPT Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng" sẽ góp phần giải quyết một trong những đòi hỏi cấp bách hiện nay của trường Trung học phổ thông Tiên Lãng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nhằm hoàn thành nhiệm vụ đào tạo của trường.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục

a. Quản lý

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là hệ thống tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục tiêu nhất định” [31]

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [7].

Tác giả Bùi Minh Hiền cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [20]. Quá trình quản lý được diễn ra tuần tự từ chức năng kế hoạch đến các chức năng tổ

chức, chỉ đạo và kiểm tra. Song thực tế các chức năng này đan xen, hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện, chất xúc tác và liên kết giữa các chức năng cơ bản này là thông tin và các quyết định quản lý.

b. Quản lý giáo dục

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Quản lý giáo dục được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Một số tác giả cho rằng: Bản chất của Quản lý giáo dục là quản lý sư phạm: Quản lý mục tiêu, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục - dạy học, quản lý con người, QL các công cụ giáo dục; QLGD nhằm phối hợp các ngành, các lực lượng xã hội, tiến hành công tác XHH GD, huy động các nguồn lực và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục - Đào tạo. QLGD tiến hành những nhiệm vụ này thông qua việc thực hiện bốn chức năng của QL: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

- Nếu tiếp cận QLGD ở cấp độ vĩ mô (QL hệ thống giáo dục) thì: QLGD là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và quy luật của chủ thể quản lý giáo dục các cấp đến tất cả các mắt xích của hệ thống Giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các nguồn lực Giáo dục, để hệ thống GD vận hành đạt được mục tiêu phát triển GD.

Quản lý hoạt động tự học của học sinh trường trung học phổ thông Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng - 3

- Nếu tiếp cận QLGD ở cấp độ vi mô (QL một cơ sở GD) thì: QLGD là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống và hợp quy luật của chủ thể quản lý một cơ sở Giáo dục đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể người học và các lượng tham gia GD khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả hoạt đông GD và Dạy học nhằm làm cho cơ sở GD vận hành luôn ổn định và phát triển để đạt tới mục tiêu đào tạo của cơ sở Giáo dục đó [37].

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “QLGD là hệ thống tác động có kế hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống nhằm đảm bảo các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối ưu, đảm bảo sự phát triển cả về mặt số lượng cũng như chất lượng để đạt được mục tiêu giáo dục” [1].

Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “QLGD là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [18].

Trong luận văn này tác giả đề cập đến QLGD theo nghĩa hẹp, quản lý một trường học.

1.2.2. Khái niệm tự học

Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [35].

Theo tác giả Nguyễn Hiếu Lê: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách thu nhận, xử lý và điều chỉnh thông tin từ môi trường sống xung quanh mình” [dẫn theo 25].

Tác giả Lê Khánh Bằng nhận định: “Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định” [2].

Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể khái quát: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.

1.2.3. Quản lý hoạt động tự học của học sinh

Quản lý hoạt động tự học là sự tác động của chủ thể quản lý đến quá trình tự học của học sinh làm cho học sinh tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính mình. Quản lý hoạt động tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với quá trình tổ chức dạy học của giáo viên.

Quản lý hoạt động tự học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng, là bộ phận cấu thành nên hệ thống quản lý quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường. Quản lý hoạt động tự học của học sinh bao gồm hai quá trình cơ bản là quản lý hoạt động tự học trong giờ lên lớp và quản lý hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp, được tiến hành trên cả hai phương diện ở trường và ở nhà.

Như vậy, quản lý hoạt động tự học là một hệ thống các tác động sư phạm có mục đích, phương pháp, kế hoạch của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đến toàn bộ quá trình tự học của học sinh nhằm thúc đẩy học sinh tự giác, tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân.

1.3. Một số vấn đề lý luận về hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông

1.3.1. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động tự học đối với học sinh THPT

Tự học là một xu thế tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tự học nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà trường, thể hiện sự đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông.

Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể nắm vững tri thức, thông hiểu tri thức, bổ sung và hoàn thiện tri thức cũng như hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Hoạt động tự học của học sinh, học sinh không chỉ nâng cao năng lực nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân. Vì trên cơ sở những tri thức họ tiếp thu được nó có ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như những phẩm chất ý chí cần thiết cho việc tổ chức lao động học tập của mỗi học sinh; Bên cạnh đó còn rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác, độc lập,… trong học tập cũng như rèn luyện thói quen trong hoạt động khác. Nói cách khác hoạt động tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mặt khác hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách, thiết yếu của học sinh, học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường để họ tiếp nhận tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân mà còn có ý nghĩa lâu dài trong suốt cuộc đời mỗi con người, đó là thói quen học tập suốt đời, bởi sau khi ra trường vẫn phải tiếp tục: Học, học nữa, học mãi và người học sinh cần phải học khi còn là học sinh, nhưng cần phải học tập hơn nữa khi đã rời ghế nhà trường và sự học tập ở giai đoạn thứ hai này còn quan trọng hơn gấp bội lần sự học tập thứ nhất và hiệu quả của nó, ảnh hưởng của nó đến cá nhân con người và đến xã hội.

Tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà còn góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò trách nhiệm của người giáo viên mà dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo của

người giáo viên, học sinh đã biết cách tự học, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại.

Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở trường THPT nói riêng, giáo viên luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo, KTĐG hoạt động học tập của học sinh. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập,... thì việc học tập không đạt kết quả cao được.

Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.

Thứ nhất, tự học giúp học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học học sinh đã từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho học sinh hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.

Thứ hai, tự học không những giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú thói quen và phương pháp tự học thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.

Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp học sinh mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp học sinh hình thành được những phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho các em có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa học.

Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở học sinh tiềm năng to lớn vốn có của họ, tạo nên

động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài. Khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.

Tuy nhiên, giáo viên là lực lượng có tác dụng lớn trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.

Trong xã hội phát triển vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn thiện và những khả năng này phải được hình thành từ cấp tiểu học. Có như vậy mới rèn luyện cho họ được kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu biết về văn hoá, khoa học kỹ thuật và hiện đại hoá vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động với đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.

1.3.2. Nguyên tắc và yêu cầu sư phạm đối với hoạt động tự học của học sinh THPT

Hoạt động tự học của học sinh THPT phải đảm bảo và tuân thủ các nguyên tắc trong dạy học và giáo dục của nhà trường: Đảm bảo thực hiện mục tiêu dạy học và giáo dục; Đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi; Đảm bảo tính kế thừa và phát triển; Đảm bảo tính hệ thống, liên tục trong lĩnh hội kiến thức.

Trong quá trình hướng dẫn học sinh tự học, người giáo viên phải coi trọng tính toàn diện, hệ thống và thường xuyên bảo đảm toàn diện về nội dung, hình thức, phương pháp tự học phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nội dung tự học bao quát đủ nội dung học tập được quy định trong chương trình, dựa trên chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học. Bên cạnh tính toàn diện, tự học của học sinh đòi hỏi phải đảm bảo tính thường xuyên liên tục, có hệ thống, sử dụng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Điều này sẽ làm giảm tâm lý lo sợ, đối phó với tự học của học sinh. Thực tế dạy học ở trường THPT cho thấy, kết hợp các phương pháp dạy học sinh tự học một cách linh hoạt, đa dạng vừa giúp giáo viên thu nhận những kết quả học tập tích cực của học sinh, vừa có tác dụng nâng cao hứng thú học tập.

Kết hợp chặt chẽ hoạt động dạy học của giáo viên với tự học của học sinh. Đây là một nhiệm vụ cần thiết khi thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích cực. Coi trọng hoạt động tự học của học sinh như một biện pháp góp phần đa dạng hóa các hình thức và phương pháp dạy học có thể khơi dậy tính chủ động, tích cực, giúp các em xác định đúng mục tích, động cơ, thái độ và tâm lý học tập để tự đánh giá kết quả học tập của mình. Thông qua đó giáo viên đánh giá chính xác trình độ và phân loại đối tượng học sinh với những năng lực học tập khác nhau. Kết quả của việc kết hợp này sẽ là căn cứ để giáo viên tiến hành các hoạt động dạy học tiếp theo, khuyến khích học sinh tiếp tục học tập, tu dưỡng.

Đa dạng hóa, phối hợp nhiều phương pháp, hình thức tự học. Hiện nay việc dạy học của giáo viên ở trường THPT còn nặng nề về lý thuyết, theo kiểu “thầy đọc, trò chép” chưa phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh, chưa cho học sinh khai thác hết nguồn lợi tri thức từ bên ngoài mà chủ yếu phụ thuộc vào sách giáo khoa, do vậy đổi mới trong dạy học chậm phát triển. Việc kết hợp các phương pháp, hình thức tự học của học sinh rất cần thiết, xu hướng dạy học hiện nay là đổi mới theo hướng phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của người học

Như vậy, đảm bảo các yêu cầu sư phạm đối với hoạt động tự học của học sinh THPT sẽ góp phần thực hiện mục tiêu dạy học. Trong các yêu cầu trên thì đảm bảo mục tiêu dạy học là quan trọng nhất bởi vì mục tiêu dạy học là thước đo kết quả, chất lượng dạy học. Trong đó yếu tố dạy- tự học của giáo viên sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học.

1.3.3. Bản chất của hoạt động tự học của học sinh Trung học phổ thông

Tự học là một quá trình tự điều khiển - quá trình tổ chức chiếm lĩnh tri thức. Tự học là hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của người học, nói như vậy không có nghĩa là người thầy truyền thụ một cách máy móc những tri thức sẵn có đến người học mà đó là quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học nhằm hình thành cho họ năng lực nhận thức, thái độ, phương pháp học tập, ý chí học để tự mình giành lấy tri thức, biến tri thức của nhân loại thành tài sản của bản thân.

Trong quá trình dạy học, người thầy căn cứ vào mục đích dạy học để lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để truyền đạt tri thức đến người

học, người học tiếp thu tri thức và đạt được kết quả học tập tương ứng. Còn trong quá trình tự học việc điều khiển nhân cách của người học được chuyển hóa thành việc tự điều khiển sự phát triển của chính bản thân họ. Như vậy, tự học là một quá trình tự điều khiển, quá trình tự tác động nhằm hướng mọi hoạt động của chủ thể vào một trình tự nhất định để đạt được kết quả tối ưu.

Người học là chủ thể của hoạt động tự học, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, tự đặt mình vào tình huống, các vấn đề để tìm ra cái chưa biết. Người học tự thể hiện mình và hợp tác với bạn và học bạn. Người thầy, chuyên gia về việc học là người tổ chức và hướng dẫn quá trình kết hợp cá nhân hóa với xã hội hóa việc học của người học. Người học tự kiểm tra, tự đánh giá và tự điều chỉnh.

Hoạt động tự học xét về mặt cấu trúc bao gồm:

Động cơ: Là nhu cầu, hứng thú thu hút người học vào quá trình học tập tích cực và duy trì tính tích cực đó trong quá trình học tập, làm cho người học thấy được ý nghĩa của việc học tập.

Định hướng: Là mục đích của người học để xác định và ý thức được hoạt động nhận thức của mình, nó trả lời câu hỏi học để làm gì?

Nội dung, phương pháp là hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ chủ đạo cần chiếm lĩnh và các cách thức chiếm lĩnh chúng, nó trả lời cho câu hỏi học cái gì? học như thế nào?

Năng lực học tập: Là khả năng tập trung chú ý, năng lực trí tuệ và năng lực thực hành vốn có để phát huy trong quá trình tự học.

Năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá: Là khả năng tự đánh giá kết quả tự học của mình làm cơ sở cho những hoạt động tiếp theo.

Trong khi tiến hành hoạt động tự học, người học phải sự dụng hệ thống các thao tác tư duy nhằm biến đổi nguồn tri thức đã tiếp thu được thành sản phẩm trí tuệ riêng của bản thân kể cả khi cần có thể sử dụng nó nhu một công cụ lao động. Trong quá trình đó đòi hỏi người học phát huy ở mức độ cao các xu hướng, tính cách, tình cảm và các yếu tố tâm lý khác. Nó bắt đầu từ việc lập kế hoạch học tập đến tổ chức thực hiện kế hoạch (sử dụng thời gian, phương pháp, các hình thức tự học cho phù hợp giữa nghe giảng, ghi chép, đọc sách và tài liệu tham khảo…).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/05/2022