6. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tại các trường cấp THCS (16 trường: Trường THCS Nậm Xé; Trường THCS số 1 Nậm Xây; Trường THCS Minh Lương; Trường THCS Dương Quỳ; Trường THCS Hòa Mạc; Trường THCS Làng Giàng; Trường THCS Khánh Yên; Trường THCS Khánh Yên Trung; Trường THCS Khánh Yên Thượng; Trường THCS Khánh Yên Hạ; Trường THCS Liêm Phú; Trường THCS Tân An; Trường THCS Tân Thượng; Trường THCS Võ Lao; Trường THCS Văn Sơn; Trường PTDT Nội trú THCS&THPT) và dữ liệu khảo nghiệm thực trạng được thực hiện từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 02 năm 2019.
7. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp các nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu lý luận và thực tiễn có liên quan đến công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp bao gồm:
- Tìm hiểu các khái niệm có liên quan đến đề tài
- Các tài liệu, văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển GD&ĐT; các quy định về quản lý trường THCS nói chung, quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp nói riêng.
- Các kết quả nghiên cứu, tài liệu trong nước và ngoài nước về phát triển giáo dục, về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp; các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - 1
- Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường trung học cơ sở huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - 2
- Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Hướng Nghiệp Cho Học Sinh
- Mục Tiêu Giáo Dục Hướng Nghiệp Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
- Kiểm Tra Đánh Giá Hoạt Động Giáo Dục Hướng Nghiệp Và Phản Hồi Thông Tin Để Cải Tiến Trong Các Trường Trung Học Cơ Sở
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát các quá trình tổ chức GDHN trong các nhà trường THCS nhằm thu nhập thông tin phục vụ quá trình nghiên cứu đề tài.
7.2.2. Phương pháp điều tra giáo dục
Xây dựng các bảng điều tra phù hợp với nội dung đề tài luận văn; thống kê, phân tích các dữ liệu để có những đánh giá chính xác về thực trạng hoạt
động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THCS và thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường THCS trên địa bàn huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai trong thời gian qua.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Thông qua phỏng vấn trực tiếp lấy các ý kiến chuyên gia, các CBQL giáo dục, GV có nhiều kinh nghiệm để khảo nghiệm thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường THCS Huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia là lãnh đạo, chuyên viên Phòng GD&ĐT và những nhà QLGD, GV, thu thông tin phục vụ quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
7.2.5. Tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Sử dụng phương pháp quan sát thực tế các đơn vị, trao đổi kinh nghiệm với Hiệu trưởng các trường THCS về cách thức tổ chức, quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường THCS.
7.3. Phương pháp bổ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê trong toán học để xử lý dữ liệu, các thông tin trong quá trình nghiên cứu, điều tra, thu thập.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo định hướng chương trình GDPT mới ở các trường THCS.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo định hướng chương trình GDPT mới ở các trường THCS huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường THCS huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP THEO ĐỊNH HƯỚNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Thế giới
Có thể nói những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có từ thời cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi người trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xã hội phát triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp thế giới thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1949 ở Pháp được xem là cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển.
Vào những năm 1940, nhà tâm lý học Mỹ J. L Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp đó là một số những nghề nghiệp mà cá nhân có thể chọn để có được kết quả làm việc cao nhất. Lý thuyết này của J. L Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp ở các nước công nghiệp (dẫn theo [29]).
Các nhà giáo dục Liên xô như B.F Kapêep; X.Ia Batưsep; X.A Sapôrinxki; V.A Pôliacôp trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã
hội, và nếu sớm thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội (dẫn theo [28]). Đồng thời các tác giả này cũng đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp cho HS phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trường trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX, công tác hướng nghiệp đã được triển khai trên đất nước Xô Viết nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vấn đề lựa chọn nghề cho mỗi công dân của đất nước. Công tác hướng nghiệp được tiến hành nhờ các tổ chức giáo dục, Uỷ ban bảo vệ sức khoẻ và các tổ chức quần chúng. Năm 1927, ở Lêningrat đã tổ chức hướng nghiệp với mục đích giúp cho tuổi trẻ và cha mẹ các em quen biết với nghề nghiệp.
Mei Tang, Wei Pan và Mark D. Newmeyer đã áp dụng mô hình lý thuyết phát triển xã hội nghề nghiệp để khảo sát các yếu tác động đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh trung học. Những phát hiện của nghiên cứu này đã chứng minh tầm quan trọng của các yếu tố: kinh nghiệm học tập, tự đánh giá năng lực nghề nghiệp, lợi ích, và kết quả mong đợi trong quá trình phát triển nghề nghiệp của học sinh trung học (dẫn theo [28]). Mối quan hệ của các yếu tố này là động, vì vậy, để can thiệp thành công cần phải xem xét mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố và kết hợp một loạt các biện pháp can thiệp ở mức độ đa hệ thống. Các nhà tư vấn nên góp phần vào sự phát triển và thực hiện một chương trình phát triển nghề nghiệp toàn diện giúp học sinh phát triển năng lực nghề nghiệp thông qua hoạt động học tập thiết thực.
Nghiên cứu của Bromley H. Kniveton, trên cơ sở khảo sát 384 thanh thiếu niên (trong đó có 174 nam và 174 nữ) từ 14 đến 18 tuổi đã đã đưa ra kết luận: Cả nhà trường và gia đình đều có thể cung cấp những thông tin và hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên. Giáo viên có thể xác định những năng khiếu và khả năng qua đó khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động ngoại khoá, tham gia lao động hướng
nghiệp hoặc tham quan những cơ sở sản xuất. Phụ huynh học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp những hỗ trợ thích hợp nhất định cho sự lựa chọn nghề nghiệp, ngoài ra còn có sự tác động của anh chị em trong gia đình, bạn bè… (dẫn theo [23]).
Michael Borchert, trên cơ sở khảo sát 325 học sinh trung học của trường Trung học Germantown, bang Wisconsin đã đưa ra nhận xét: trong ba nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp là: Môi trường, cơ hội và đặc điểm cá nhân thì nhóm yếu tố đặc điểm cá nhân có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự chọn lựa nghề nghiệp của học sinh trung học.
Trong nghiên cứu của mình D. W. Chapman cho rằng các yếu tố cố định của trường đại học như học phí, vị trí địa lý, chính sách hỗ trợ về chi phí hay môi trường ký túc xá sẽ có ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học sinh. Ngoài ra ông còn nhấn mạnh ảnh hưởng của nỗ lực của các trường đến quyết định chọn trường của học sinh. D. W. Chapman còn cho rằng, các yếu tố tự thân cá nhân học sinh là một trong những nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của bản thân họ (dẫn theo [29]).
M.J. Burns và các cộng sự đã cho rằng mức độ nổi tiếng và uy tín của trường, đội ngũ giáo viên danh tiếng cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học sinh, “tỷ lệ chọi” đầu vào, điểm chuẩn của trường là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học sinh . Ngoài mong đợi về học tập trong tương lai thì mong đợi về công việc trong tương lai cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học sinh. S.G. Washburn và các cộng sự còn cho rằng sự sẵn sàng của bản thân cho công việc và cơ hội kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của học sinh (dẫn theo [30]).
D.W. Chapman, trong việc chọn trường, các học sinh bị tác động mạnh mẽ bởi sự thuyết phục, khuyên nhủ của bạn bè và gia đình. Bên cạnh đó, Hossler và Gallagher còn cho rằng các cá nhân tại trường học cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định chọn trường của học sinh (dẫn theo [29]).
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam giáo dục hướng nghiệp tuy được xếp ngang tầm quan trọng với các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, rất thiếu về lực lượng, không mang tính chuyên nghiệp... Vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu quả. Vấn đề hướng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm khi nền kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các ngành nghề và nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực.
Trong chương trình GDPT hiện hành hướng nghiệp được coi là một hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ có thời lượng hạn chế và chưa thể hiện rõ tích hợp vào các môn học khác trừ môn dạy nghề và hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các cơ sở giáo dục được thực hiện thống nhất trên toàn quốc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu như Đặng Danh Ánh, Phạm Tất Dong, Quang Dương, Nguyễn Văn Hộ,… đã đề cập đến nhiều khía cạnh trong công tác QLGDHN cho học sinh phổ thông.
Một số công trình nghiên cứu về công tác GDHN ở cấp Bộ như: Đề tài cấp Bộ năm 2005: “Những giải pháp triển khai thực hiện tổ chức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông khu vực miền núi Đông Bắc Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền thuộc Đại học sư phạm Thái Nguyên; Sách chuyên khảo “Tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2015), NXB Đại học Thái Nguyên [20]. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2009: “Tham vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông-Thực trạng ở Việt nam và kinh nghiệm Quốc tế” do Lê Thị Thanh Hương làm chủ nhiệm. Theo tác giả Phạm Tất Dong, đa số thanh niên không kiếm được việc làm là do không biết nghề (67,4%) [11] và nhấn mạnh: “Chú trọng hình thành những năng lực nghề nghiệp cho thế hệ trẻ để tự họ tìm ra việc làm”, đồng thời: “tiếp sau quá trình hướng nghiệp dứt khoát phải dạy nghề cho học sinh. Đây sẽ là một nguyên tắc cơ bản” [9].
Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Đặng Danh Ánh xác định: “Cách mạng khoa học kỹ thuật đã thay đổi tận gốc lao động, và do đó thay đổi những đặc điểm và cách đào tạo con người ở trong nhà trường. Cần phải trang bị cho học sinh không chỉ kiến thức và kỹ thuật công nghệ nhất định mà còn hình thành có hiệu quả phương tiện phát triển tư duy sáng tạo kỹ thuật, tính độc lập trí óc, hình thành kỹ năng, trong thời gian tối thiểu thu được lượng thông tin tối đa và năng lực tự học” [1]. Công trình khoa học của tác giả Nguyễn Văn Hộ đề cập đến vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống giáo dục hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam” [18]. Tác giả đã xây dựng luận chứng cho hệ thống hướng nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,đề xuất những hình thức phối hợp giữa nhà trường, cơ sở sản xuất, cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp, dạy nghề cho học sinh phổ thông.
*Những nghiên cứu về quản lý giáo dục hướng nghiệp
Nguyễn Quốc Thanh Long (2012), Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng các trường THPT huyện Bình Chánh [23]. Tác giả đã khái quát được lý luận của công tác giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT, quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT với nội dung về: Thành lập Ban hướng nghiệp vad xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể các thành viên Ban hướng nghiệp; Phân công trách nhiệm hướng nghiệp trong nhà trường; kế hoạch hoạt động GDHN, Tổ chức hoạt động GDHN; Chỉ đạo thực hiện hoạt động GDHN; Kiểm tra, đánh giá hoạt động GDHN; kiểm tra, đánh giá hoạt động GDHN; tổng kết hoạt động GDHN. Đề xuất biện pháp về tăng cường tư tưởng nhận thức; các nhóm biện pháp chính và đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức HĐGDHN.
Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2011), Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT Quận 12 thành phố Hồ Chí Minh [31]. Tác giả đã nêu nội dung chính về quản lý hoạt động hướng nghiệp đó là: Xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động GDHN; Tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch, chương trình HĐGDHN; kiểm tra, đánh giá hoạt động GDHN; đảm bảo các
điều kiện cho HĐGDHN, trên cơ sở phân tích thực trạng tại địa bàn, tác giả đưa ra 07 giải pháp quan trọng giải quyết.
Phan Ngọc Hà (2009), Thực trạng quản lý hoạt động GDHN của HT các trường THPT huyện Thốt Nốt, Thành phố Cần Thơ hiện nay [16]. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về công tác QL hoạt động GDHN của HT các trường THPT huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay chưa đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích các thực trạng về sự thiếu thông tin, sự thiếu hiểu biết của HS về các ngành, nghề trong XH dẫn đến việc chọn nghề nghiệp tương lai của các em HS không phù hợp, các HTGDHN trong nhà trường THPT còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, đề tài chưa chú ý phân tích đánh giá quản lý theo chức năng (công tác tư tưởng, chức năng kế hoạch hóa, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo thực hiện và chức năng kiểm tra đánh giá. Đặc biệt, đề tài chưa xác định rõ tương quan giữa quản lý theo chức năng với kết quả quản lý.
Tác giả Nguyễn Hữu Thiện (2004), Tìm hiểu thực trạng công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp [30]. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại thành phố Hồ Chí Minh chưa đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích các thực trạng về sự thiếu thông tin, sự thiếu hiểu biết của HS về các ngành, nghề trong XH dẫn đến việc chọn nghề nghiệp tương lai của các em HS không phù hợp, các hình thức GDHN trong nhà trường THPT còn nhiều hạn chế. Bên cạnh, đề tài chưa đề cập đến sự lãnh đạo phối hợp GD của nhà trường - gia đình - xã hội trong công tác GDHN cho HS. Vì công tác GDHN trong nhà trường phổ thông là một bộ phận của công tác HN của toàn XH. Gia đình lại là cái nôi đầu đời có ảnh hưởng lớn tới sự chọn lựa nghề nghiệp tương lai của HS. Ở đây đề tài chưa đề cập đến nhiệm vụ của CMHS trong việc GDHN và chưa có sự phối hợp GD của nhà trường với gia đình để HN cho các em.
Tác giả Huỳnh Thị Tam Thanh (2003), Quản lý công tác HN cho HSPT bậc trung học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp (dẫn theo [28]). Đề tài này đã xác định được