Hoạt Động Dạy Nghề Ngắn Hạn Ở Trung Tâm Kỹ Thuật Tổng Hợp - Hướng Nghiệp - Dạy Nghề

Nói tóm lại chúng ta có thể hiểu: Biện pháp quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển hợp với quy luật, đạt mục đích đề ra và đúng với ý chí của người quản lý.

Trong đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề ngắn hạn nói riêng, biện pháp quản lý là sự tác động là tổ hợp các phương pháp tiến hành của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để các hoạt động đào tạo nghề đạt được hiệu quả cao nhất. Trong đào tạo nghề, các biện pháp quản lý phải có mục tiêu xác định rõ ràng, cụ thể, có cơ sở khoa học và tính thực tiễn, biện pháp có tính khả thi và đạt được mục tiêu đặt ra.

1.2.2. Khái niệm hoạt động đào tạo nghề

1.2.2.1. Khái niệm nghề

Từ điển Tiếng Việt (1998) định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên làm, theo sự phân công lao động của xã hội” [23].

Theo tác giả Nguyễn Hùng thì: “Những chuyên môn có những đặc điểm chung gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn và được gọi là nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm chuyên môn cùng loại gần giống nhau. Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con người dùng sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi ích của con người” [11].

Như vậy, có thể hiểu: Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.

1.2.2.2. Khái niệm đào tạo nghề (dạy nghề)

Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì: “Dạy nghề là cung cấp cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan tới công việc nghề nghiệp được giao”.

Tác giả William Mc Gehee cho rằng: “Dạy nghề là những quy trình mà các công ty sử dụng để tạo thuận lợi cho việc học tập có kết quả các hành vi đóng góp vào mục đích và các mục tiêu của công ty”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Ông Max Forter (1979) đưa ra khái niệm dạy nghề là đáp ứng bốn điều kiện:

- Gợi ra những giải pháp cho người học;

Quản lý hoạt động dạy nghề ngắn hạn ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương đáp ứng nhu cầu lao động địa phương - 4

- Phát triển tri thức, kĩ năng và thái độ;

- Tạo ra sự thay đổi trong hành vi;

- Đạt được những mục tiêu chuyên biệt.

Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã ban hành Luật dạy nghề số 76/2006/QH11, trong đó viết: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học” [14].

Tổng hợp các quan niệm của các tác giả trên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi hiểu: Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.

1.2.2.3. Khái niệm đào tạo nghề ngắn hạn

Là cách thức đào tạo nghề trong thời gian ngắn đối với người có trình độ học vấn, sức khỏe phù hợp với nghề cần học nhằm tạo cơ hội cho người học tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm

Qua các khái niệm trên, ta có thể thấy dạy nghề là khâu quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, tuy nó không tạo ra việc làm ngay nhưng nó lại là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc làm và thực hiện công việc. Dạy nghề giúp cho người lao động có kiến thức chuyên môn, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp để từ đó họ có thể xin được việc làm trong các cơ quan, doanh nghiệp hoặc có thể tự tạo ra công việc sản xuất cho bản thân.

Hiện nay, dạy nghề mang tính tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. Sự tích hợp thể hiện ở chỗ nó đòi hỏi người học sinh hôm nay, người thợ trong

tương lai phải vừa chuyên sâu về kiến thức, vừa phải thành thục về kỹ năng. Đây là điểm khác biệt lớn trong dạy nghề so với dạy văn hóa.

Điểm khác biệt tiếp theo cần kể đến đó là: Nguyên lý và phương châm của dạy nghề: Học đi đôi với hành; lấy thực hành, thực tập kỹ năng nghề làm chính; coi trọng giáo dục đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho người học, đảm bảo tính giáo dục toàn diện [22].

Căn cứ vào thời gian đào tạo, đào tạo nghề hiện nay được phân loại gồm: đào tạo ngắn hạn và đào tạo dài hạn. Đào tạo ngắn hạn là loại hình đào tạo có thời gian đào tạo dưới 1 năm gồm dạy nghề sơ cấp và dạy nghề thường xuyên. Loại hình này chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề, xây dựng làng nghề mới và khôi phục làng nghề truyền thống ở các địa phương. Loại hình này có ưu điểm là có thể tập hợp được đông đảo lực lượng lao động ở mọi lứa tuổi, những người không có điều kiện học tập trung vẫn có thể tiếp thu được tri thức. Đối với đào tạo dài hạn là loại hình đào tạo nghề có thời gian từ 1 năm trở lên, là hình thức đào tạo trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Loại hình này chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ. Đào tạo nghề dài hạn thường có chất lượng cao hơn đào tạo nghề ngắn hạn.

Về hình thức đào tạo nghề nhìn chung rất phong phú và đa dạng. Có thể giới thiệu một số hình thức sau:

+ Đào tạo nghề chính quy: Được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở dạy nghề theo các khóa tập trung và liên tục. Có thể hiểu đào tạo nghề chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại các cơ sở đào tạo nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu là đào tạo công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.

+ Đào tạo nghề thường xuyên: Là hình thức đào tạo nghề trực tiếp, trong đó người học sẽ được học những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực hiện công việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc người truyền nghề.

Ở các cơ sở dạy nghề địa phương hiện nay hầu hết tồn tại loại hình dạy nghề ngắn hạn trong đó có dạy nghề sơ cấp 3 tháng và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng.

1.2.3. Khái niệm nhu cầu lao động

Trong quá trình phát triển, một xã hội công nghiệp với sự phát triển mạnh mẽ của KHCN, nhu cầu đào tạo nhân lực của các ngành sản xuất - dịch vụ ngày càng cao và càng đa dạng tương ứng với các giai đoạn công nghiệp hóa. Sau cách mạng công nghiệp, giai cấp tư sản lớn mạnh nhanh chóng, họ yêu cầu giáo dục phải hướng về cuộc sống, đào tạo một đội ngũ nhân lực mới, tức là lớp người được giáo dục có đủ khả năng tham gia có hiệu quả vào nền công, thương nghiệp hiện đại và trở thành những công nhân kỹ thuật thành thạo [10].

Theo tác giả A.V.Côvaliov: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà mỗi cá nhân cần được thỏa mãn để có thể tồn tại và phát triển”.

Lao động: Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Thực chất là sự vận động của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội; lao động cũng chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Có thể nói lao động là yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.

Nguồn lao động: Là bộ phận dân cư gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài tuổi lao động nhưng trong thực tế vẫn tham gia lao động.

Cầu lao động: Là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hang hóa sức lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động, khi giá cả tăng hoặc giảm sẽ làm cho cầu về lao động giảm hoặc tăng.

Cung lao động: Là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường cung lao

động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thỏa thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá cả tăng thì lượng cung lao động tăng và ngược lại.

Nhu cầu là trạng thái tâm lý mà con người cảm thấy thiếu thốn không thoải mái về một cái gì đó và mong muốn được đáp ứng nó. Nhu cầu gắn liền với sự tồn tại, phát triển của con người, cộng đồng và tập thể xã hội.

Căn cứ vào nguồn gốc có hai loại nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.

+ Nhu cầu vật chất: Là các nhu cầu về ăn, mặc, ở, … đảm bảo cho người lao động có thể sống được, thỏa mãn được nhu cầu tối thiểu cùng với sự phát triển của xã hội.

+ Nhu cầu tinh thần: Là nhu cầu bậc cao hơn, nó đòi hỏi những điều kiện để con người tồn tại và phát triển về mặt trí lực nhằm tạo ra tâm lý thoải mái. Cả 2 yếu tố vật chất và tinh thần cùng tồn tại trong bản thân người lao động.

Trên cơ sở hiểu biết chung về nhu cầu, chúng ta thấy:

Nhu cầu lao động: Là đòi hỏi khách quan phải được thỏa mãn về hoạt động chân tay và hoạt động trí óc nhằm cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo con người. Nhờ quá trình lao động và thông qua lao động mà tư duy con người ngày càng hoàn thiện và phát triển từ người nguyên thủy cho đến người hiện đại. Tuy trong cùng một xã hội nhưng nhu cầu lao động của mỗi người rất khác nhau, đó là kết quả của giáo dục và tự giáo dục. Để có nhu cầu lao động chúng ta cần giáo dục về giá trị lao động, hình thành trong mỗi con người khát khao được cống hiến tài năng, trí lực của bản thân cho xã hội. Mà bước ban đầu là làm những điều đơn giản nhất. Bởi nếu chúng ta không biết lao động từ nhỏ thì lớn lên sẽ không biết quý trọng giá trị lao động, không biết làm việc và đương nhiên trở thành kẻ vô dụng. Chính vì vậy, nó thôi thúc con người cần phải lao động, và con người đang làm việc là đang đáp ứng nhu cầu lao động của mình [6].

Như vậy, nhu cầu lao động là những đòi hỏi, mong muốn được tham gia vào hoạt động lao động, đóng góp công sức tạo ra sản phẩm phục vụ cho cá nhân và xã hội. Muốn như vậy thì mỗi con người phải có kỹ năng lao động và kỹ thuật lao động. Từ đó nảy sinh nhu cầu học nghề (nhu cầu đào tạo nghề).

Nhu cầu học nghề (nhu cầu đào tạo nghề) của một người là những gì người đó cần học để có thể đạt được mục tiêu học được một nghề nhất định trong cuộc sống. Thông thường nhu cầu học thường xuất phát từ những mong muốn hay nguyện vọng của chính người học. Đôi khi người học không tự mình thấy ngay được những nhu cầu đó mà cần phải có sự hỗ trợ, tư vấn của người làm công tác đào tạo để có thể thấy rõ hơn.

Như vậy, nhu cầu đào tạo nghề là những mong muốn được đào tạo một nghề để đạt được mục tiêu trang bị một nghề nhất định trong cuộc sống.

Để thỏa mãn nhu cầu đào tạo nghề của người lao động thì phải quan tâm tới việc đánh giá nhu cầu đào tạo của họ trước khi thực hiện đào tạo họ.

Đánh giá nhu cầu đào tạo nghề: Việc đánh giá nhu cầu đào tạo nghề trong một tổ chức cần được dựa trên ba yếu tố: phân tích tổ chức, phân tích công việc và phân tích con người (I.L. Goldstein, 1993; Paul M. Muchinsky, 1996; Paul E. Spector, 2000) [6].

+ Phân tích tổ chức: Việc đào tạo nghề cho người lao động trong một tổ chức phải căn cứ vào quy mô của tổ chức, nhu cầu đào tạo nghề trong tổ chức và thời điểm đào tạo nghề. Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với việc đào tạo nghề cho người lao động là đào tạo cho họ các kỹ năng nghề nghiệp.

+ Phân tích công việc của người lao động: Nó được quy định bởi đối tượng đào tạo nghề (người lao động). Sự phân tích này liên quan tới việc thực hiện các hoạt động lao động và các thao tác nghề trong thực tế của người lao động. Theo Paul M. Muchinsky (1996), phân tích công việc của người lao động gồm bốn bước cơ bản: Phát triển các ý tưởng về công việc; Phát triển các nhóm vấn đề về công việc; Phát triển kiến thức, kỹ năng, năng lực và các công việc

thích hợp; Thiết kế môi trường đào tạo từ sự kết hợp các kiến thức, kỹ năng của công việc.

+ Phân tích con người: Phân tích con người để tìm lời giải cho hai câu hỏi: Ai là những người cần đào tạo trong tổ chức? Loại hình đào tạo nào cần cho họ? Việc phân tích về kiến thức, kỹ năng và năng lực của người lao động ở trên là một trong những nội dung quan trọng của phân tích con người. Bởi lẽ, kiến thức, kỹ năng và năng lực của người lao động có liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ mà tổ chức giao cho họ. Việc phân tích con người giúp chúng ta nắm được chính xác nhu cầu đào tạo người lao động trong tổ chức: Những ai cần được đào tạo nghề, đào tạo về nghề gì và hình thức đào tạo là gì. Trong một tổ chức, nhất là các tổ chức lớn thì nhu cầu đào tạo nghề là rất đa dạng. Xác định được chính xác nhu cầu đào tạo của người lao động là công việc không dễ dàng. Phân tích con người trong tổ chức còn giúp chúng ta phân công nhiệm vụ cho người lao động một cách phù hợp: phù hợp với trình độ, kỹ năng và năng lực của họ [6].

1.2.4. Khái niệm quản lý đào tạo nghề

Đào tạo là một lĩnh vực bao gồm toàn bộ các hoạt động của nhà trường nhằm cung cấp kiến thức và giáo dục cho học sinh, sinh viên. Đây là công việc kết nối giữa mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình đào tạo, tổ chức thực hiện chương trình và các vấn đề liên quan đến tuyển sinh, đào tạo, giám sát, đánh giá, kiểm tra, thi tốt nghiệp cùng các quy trình đánh giá khác, các chính sách liên quan đến chuẩn mực và cấp bằng ở lĩnh vực đào tạo chuyên nghiệp ở các cơ sở đào tạo nghề.

Quản lý đào tạo nghề là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, kiểm tra, đánh giá các hoạt động đào tạo nghề của toàn hệ thống theo kế hoạch và chương trình nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.

Quản lý quá trình đào tạo nghề thực chất là quản lý các yếu tố sau theo một trình tự, quy trình vừa khoa học, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của các

cơ sở đào tạo nghề, đem lại hiệu quả trong công tác đào tạo. Theo chức năng quản lý là: kế hoạch hóa; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá. Còn theo quy trình quản lý là: Mục tiêu; Nội dung; Phương pháp; Hình thức tổ chức; Hoạt động dạy nghề (chủ thể là người dạy); Hoạt động học nghề (chủ thể là người học); Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo nghề; Môi trường; Tổ chức thực hiện Quy chế đào tạo nghề trong kiểm tra, đánh giá; Tổ chức bộ máy. Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.

Trong quá trình quản lý đào tạo nghề có quản lý đào tạo nghề ngắn hạn. Đó là quá trình diễn ra trong một thời gian ngắn (ngắn về thời gian, thấp về trình độ). Người học có thể học trong thời gian ngắn (dưới 3 tháng) và chỉ cần nắm bắt được những nguyên lý và làm được những kỹ thuật cơ bản của một nghề nào đó. Do đó, để phù hợp với thực tiễn, chúng tôi kết hợp sử dụng cả hai cách trên trong quá trình quản lý đào tạo nghề ngắn hạn tại đơn vị.

Nhiệm vụ của quản lý đào tạo nghề chính là ổn định duy trì quá trình đào tạo nghề và đổi mới phát triển đào tạo nghề, đón đầu những tiến bộ khoa học kỹ thuật đem lại hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội . Từ đó đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội, nhu cầu của thị trường, nhu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu của lao động địa phương trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

1.3. Hoạt động dạy nghề ngắn hạn ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề

1.3.1.Chức năng của Trung tâm KTTH-HN-DN

Theo Hướng dẫn số 132/SGD&ĐT-TCCB ngày 15 tháng 01 năm 2008 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hải Dương thì các Trung tâm KTTH-HN-DN có chức năng cụ thể như sau:

Là đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động . Trung tâm có chức năng thực hiện giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh bậc trung học phổ thông và người lao động; liên kết với các cơ sở dạy nghề để tổ chức đào tạo nghề ngắn hạn, dài hạn và các lớp trung cấp nghề cho

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/02/2023