Khái Niệm Quản Lý Và Biện Pháp Quản Lý

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ NGẮN HẠN Ở TRUNG TÂM KTTH-HN-DN ĐÁP ỨNG NHU CẦU LAO ĐỘNG ĐỊA PHƯƠNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Ở nước ngoài

Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề và quản lý quá trình đào tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do đặc điểm, yêu cầu về nguồn nhân lực - đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước có khác nhau nên không chỉ có lĩnh vực đào tạo nghề mà cả phương pháp, hình thức, quy mô đào tạo nghề cũng khác nhau song có điểm chung là đều chú trọng đến sự phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.

Chẳng hạn: Ở Mỹ, việc đào tạo công nhân kỹ thuật được chú trọng và tiến hành ngay từ cấp THPT phân ban và các trường dạy nghề cấp trung học, các cơ sở đào tạo nghề sau THPT. Học sinh tốt nghiệp được cấp bằng chứng nhận và chứng chỉ công nhân lành nghề và có quyền được đi học tiếp theo. Thời hạn đào tạo dao động từ 2 đến 7 năm tùy thuộc vào từng nghề đào tạo. Các loại trường tư thục thuộc vào các công ty tư nhân mà công ty của họ khá lớn. Các nhà trường trong công ty đào tạo công nhân ngay trong công ty mình và có thể đào tạo cho công ty khác theo hợp đồng.

Còn ở Cộng hòa liên bang Đức đã sớm hình thành hệ thống đào tạo nghề và hệ trung cấp chuyên nghiệp. Giáo dục chuyên nghiệp còn là một bộ phận trung học cấp hai của hệ thống giáo dục quốc dân với các loại hình trường đa dạng. Họ đã phân thành hai trình độ: Ở trình độ 1 được xếp vào bậc trung học tương đương với THPT từ lớp 9 đến lớp 12; Ở trình độ 2 được xếp cao hơn bậc THPT. Ngoài trường phổ thông mang tính không chuyên nghiệp chỉ nhằm mục tiêu đào tạo chuẩn bị lên đại học còn có các trường phổ thông chuyên nghiệp,

trường hỗn hợp,… Học sinh các trường này có thể vào học ở các trường đại học chuyên ngành. Sau khi tốt nghiệp chủ yếu học sinh ra làm việc sơ cấp. Do các loại hình trường rất đa dạng nên không có mô hình tổ chức quản lý đồng nhất giữa các bang khác nhau, có trường công lập, trường tư thục, có trường thuộc công ty tư nhân chuẩn bị phần nhân lực cho công ty mình,…

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô trước đây cũng sớm quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề, với những đóng góp quan trọng của các nhà giáo dục học, tâm lý học như X.I Arkhangenxki, A.E Klimov, T.V Cuđrisep,…dưới góc độ giáo dục học nghề nghiệp, tâm lý lao động, tâm lý học kỹ sư, tâm lý học xã hội. Tuy nhiên, theo nhận xét của T.V Cuđrisep, những nghiên cứu trong lĩnh vực dạy học và giáo dục nghề vào những năm 70 của thế kỷ XX còn mang tính từng mặt, một chiều nên chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống và lao động. Quá trình hình thành nghề lúc đó được chia thành 4 giai đoạn tách rời nhau đó là: Giai đoạn nảy sinh dự định nghề và bước vào học các trường nghề; giai đoạn học sinh lĩnh hội có tính chất tái tạo những tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; giai đoạn thích ứng nghề và cuối cùng là giai đoạn hiện thực hóa từng phần hoạt động nghề. Quan niệm trên của T.V Cuđrisep đã tạo ra những khó khăn rất lớn trong quá trình học và dạy nghề. Quá trình đào tạo nghề trở lên áp đặt và không thấy được mối quan hệ giữa các giai đoạn hình thành nghề.

Cũng theo T.V Cuđrisep, để khắc phục những khó khăn hạn chế trên cần phải có sự nhận thức lại, theo ông sự hình thành nghề của thế hệ trẻ trong điều kiện của giáo dục và dạy học là một quá trình lâu dài, liên tục và thống nhất. Quá trình hình thành nghề trải qua 4 giai đoạn nhưng nó có sự gắn bó mật thiết với nhau. Quan điểm này của ông đã tạo nên nhận thức mới về sự hình thành nghề, là cơ sở khoa học để xây dựng mô hình đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề [25].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Từ kết quả trên có thể thấy: Một số nước trên thế giới đã quan tâm tới việc đào tạo nghề, hình thành nghề cho người lao động. Cho đến hiện nay, hầu

hết các nước trên thế giới đều bố trí hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề bên cạnh bậc phổ thông và đào tạo bậc cao đẳng, đại học. Do sớm có hệ thống đào tạo nghề nên các nước tư bản phát triển đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quá trình đào tạo. Quá trình đào tạo cũng như quản lý đào tạo nghề liên tục được hoàn thiện, đổi mới để đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.

Quản lý hoạt động dạy nghề ngắn hạn ở Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương đáp ứng nhu cầu lao động địa phương - 3

1.1.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, những vấn đề về đào tạo nghề, quản lí quá trình đào tạo nghề cũng được quan tâm ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, khi đó có Tổng cục dạy nghề. Lúc đó đã có một số nhà nghiên cứu như Đặng Danh Ánh, Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Hộ,…nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về sự hình thành nghề và công tác dạy nghề. Tuy nhiên, sau đó những nghiên cứu về đào tạo nghề, quản lý quá trình đào tạo nghề ở nước ta lắng xuống, ít được chú trọng. Chỉ đến những năm gần đây do nhu cầu của xã hội và nhu cầu của thị trường lao động, vấn đề đào tạo nghề tiếp tục được quan tâm nghiên cứu trở lại trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn.

Đảng và nhà nước từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới rất quan tâm đến công tác đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề. Trong những năm gần đây đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giúp cho công tác đào tạo nghề luôn phát triển và đạt được những thành tựu nhất định. Điều này được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục năm 2005, Luật dạy nghề năm 2006, Quy chế của trung tâm dạy nghề năm 2007, … Mặt khác, nhiều nhà khoa học cũng đã có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: “Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam” của tác giả Nguyễn Viết Sự (2001); “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp” của Chu Tiến Quang (2001); “Đổi mới hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” của Đỗ Minh Cương (2001) ; “Giáo dục kỹ thuật- Nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực” của Trần Khánh Đức (2002); “Giáo dục nghề nghiệp- Những vấn đề và giải pháp” của Nguyễn Viết Sự (2005); “Thị trường lao

động Việt Nam, thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Thị Thơm (2006); “Sổ tay tư vấn hướng nghiệp và chọn nghề” của Trung tâm Lao động- Hướng nghiệp- Bộ Giáo dục và Đào tạo do Nguyễn Hùng chủ biên (2008);….

Tóm lại, ở Việt Nam hiện nay, công tác đào tạo nghề cho người lao động có nhiều bước phát triển nhanh. Do xu thế thời đại và hội nhập quốc tế nên các ngành nghề đào tạo được đa dạng. Hệ thống các trường dạy nghề phát triển không ngừng, cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình đào tạo được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Tuy nhiên số lượng nhân lực qua đào tạo còn thấp, chất lượng không cao. Cơ cấu nguồn nhân lực qua đào tạo trong các lĩnh vực nhất là lĩnh vực nông nghiệp còn mất cân đối. Các ngành nghề lao động chân tay cho người lao động nông thôn ít được quan tâm. Do đó những vấn đề về quản lý hoạt động dạy nghề trong đó có dạy nghề ngắn hạn cũng ít được quan tâm.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Khái niệm quản lý và biện pháp quản lý

1.2.1.1. Khái niệm quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là hoạt động của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp, điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung” [23].

Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khái niệm quản lý theo các hướng khác nhau. Đó là: Cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, kiểm tra theo góc độ tổ chức.

Theo Điều khiển học thì quản lý là lái, điều khiển, điều chỉnh.

Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm tổ chức, phối hợp hoạt động của con người trong quá trình sản xuất xã hội để đạt được mục đích đã định.

Các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều định nghĩa về quản lý nhìn từ những góc độ khác nhau, cụ thể:

Theo Harold Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của

nhóm (tổ chức) với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học” [9].

Theo M.I.Konđacôp: “Quản lý xã hội một cách khoa học không phải là cái gì khác mà chính là việc tác động một cách hợp lý đến hệ thống xã hội, làm cho hệ thống đó phù hợp với những quy luật vốn có của nó” [16].

Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” (Mác- Anghen toàn tập- Tập 4) [15].

Các nhà lý luận quản lý như: Frederich Wiliam Taylor (1856-1915), Mỹ; Henri Fayol (1841-1925), Pháp; Max Weber (1864-1920), Đức,... đều đã khẳng định: Quản lý là khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn: “Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận với mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người” [20].

Tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [18].

Theo Phan Văn Kha, khái niệm quản lý trong hoạt động giáo dục được hiểu là: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định” [12].

Tác giả Nguyễn Bá Dương quan niệm: “Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý qua

con đường tổ chức, là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội” [7].

Còn theo tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người - thành viên của hệ- nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới lục đích dự kiến” [13].

Hai tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc quan niệm: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích đề ra” [5].

Theo tác giả Nguyễn Văn Bình: “Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác” [1].

Hai tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt lại quan niệm: “Quản lý là một quá trình có tính định hướng, có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được đến mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [17].

Từ rất nhiều định nghĩa dưới các góc độ khác nhau của các tác giả nêu trên, chúng ta thấy:

- Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn tự giác, phấn khởi đem hết năng lực, trí tuệ của mình tạo nên lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.

- Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, đó là quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.

- Quản lý là quá trình tác động có ý thức; là phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chung để tồn tại trong một môi trường luôn biến đổi.

Mô hình của hoạt động quản lý:

Công cụ quản lý

Phương pháp

quản lý

Môi trường quản lý

Chủ thể quản lý

Khách thể quản lý

Mục tiêu quản lý


Từ những phân tích trên chúng tôi hiểu: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích đề ra.

Như vậy quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản là: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản lý, các thức quản lý và môi trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau để hình thành nên quy luật và tính quy luật quản lý.

Để thực hiện tốt công tác quản lý thì cần chú trọng tới 4 chức năng của quản lý. Đó là:

Kế hoạch hoá: Là việc thực hiện có kế hoạch trên diện rộng, quy mô lớn. Căn cứ vào thực trạng và dự định của tổ chức để xác định mục tiêu, mục đích, những biện pháp trong từng thời kỳ nhằm đạt được mục tiêu dự định.

Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, bộ phận nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối nguồn lực, vật lực, nhân lực.

Chỉ đạo: Đó chính là phương thức tác động của chủ thể quản lý. Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác, động viên họ hoàn thành để đạt mục tiêu của tổ chức.

Kiểm tra: Thông qua một số cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, theo dõi giám sát thành quả lao động, tiến hành uốn nắn, sửa chữa những hoạt động sai. Đây chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động tự quản lý.

Với những chức năng đó, quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Nó nâng cao hiệu quả của hoạt động, đảm bảo trật tự kỷ cương trong bộ máy và nó là nhân tố tất yếu của sự phát triển [21].

Khi chúng ta thực hiện được đầy đủ các chức năng của quản lý cũng có nghĩa là nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý: Thể hiện ý chí của chủ thể quản lý đồng thời phải phù hợp với sự vận động và phát triển của các yếu tố có liên quan đến quản lý là: Yếu tố xã hội - môi trường, yếu tố chính trị - pháp luật, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền uy, yếu tố thông tin.

Tóm lại, quản lý là quá trình tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu quản lý.

1.2.1.2. Khái niệm biện pháp quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt (1998) định nghĩa: “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [23].

Biện pháp quản lý là nội dung, cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó của chủ thể quản lý. Trong quản lý giáo dục, biện pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong công tác quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp với quy luật khách quan. Trong nhà trường thì biện pháp quản lý hoạt động dạy và học là những cách thức tổ chức, điều hành, kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và học của cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm đạt được kết quả đề ra.

Theo nghĩa hẹp thì biện pháp quản lý là tổng thể những cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Theo nghĩa rộng thì biện pháp quản lý còn bao hàm cách thức hoạt động của chính bản thân chủ thể, cách thức giải quyết vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/02/2023