Một trong những điểm mới của chương trình các môn học trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể là việc tích hợp liên môn để giúp học sinh giảm tải. Việc dạy tích hợp ở phổ thông được nhiều giáo viên đánh giá cao, bởi phương pháp này phát huy được năng lực của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức vào cuộc sống hàng ngày. Chú trọng phát triển năng lực người học
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã xác định: Dạy học tích hợp là định hướng dạy học giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề phức hợp trong học tập và cuộc sống, phát triển được những kỹ năng cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.
Các tình huống trong dạy học tích hợp thường gắn với thực tiễn cuộc sống, gần gũi và hấp dẫn với người học, người học cần phải giải thích, phân tích, lập luận hoặc tiến hành các thí nghiệm, xây dựng các mô hình... để giải quyết vấn đề. Vì vậy, khi kiểm tra, đánh giá học sinh trong dạy học tích hợp, không chỉ đánh giá kiến thức học sinh lĩnh hội được mà đánh giá xem học sinh có năng lực sử dụng kiến thức trong các tình huống có ý nghĩa hay không. Đây là hình thức dạy học tốt nhất hiện nay để phát triển năng lực người học.
Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. "Tích hợp" là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động dạy học còn "liên môn" là đề cập tới nội dung dạy học. Đã dạy học "tích hợp" thì chắc chắn phải dạy kiến thức "liên môn" và ngược lại, để đảm bảo hiệu quả của dạy liên môn thì phải bằng cách và hướng tới mục tiêu tích hợp.
Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học.
Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các
môn học khác nhau.
Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội.
1.3.2. Dạy học Môn Lịch sử - Địa lý theo hướng tích hợp ở THCS
Mục tiêu dạy học Môn Lịch sử - Địa lý: Lịch sử và Địa lý là môn học bắt buộc ở cấp THCS. Môn Lịch sử và Địa lý hình thành và phát triển ở học sinh năng lực lịch sử và năng lực địa lý biểu hiện đặc thù của năng lực khoa học trên nền tảng kiến thức cơ bản có chọn lọc về lịch sử, địa lý thế giới, quốc gia, địa phương, các quá trình tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa diễn ra trong không gian và thời gian, sự tương tác giữa xã hội loài người với môi trường thiên nhiên; Giúp học sinh biết cách sử dụng các công cụ của khoa học lịch sử và khoa học địa lý để học tập, vận dụng vào thực tiễn, đồng thời cùng các môn học và hoạt động giáo dục khác hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đặc biệt là tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc, thái độ tôn trọng sự đa dạng của lịch sử thế giới và văn hóa nhân loại, khơi dậy ở học sinh ước muốn khám phá thế giới xung quanh, vận dụng những điều đã học và thực tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử - địa lý theo hướng tích hợp ở các trường trung học cơ sở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang - 2
- Nghiên Cứu Về Quản Lý Dạy Học Theo Hướng Tích Hợp
- Một Số Đặc Điểm Của Học Sinh Trung Học Cơ Sở Người Dân Tộc
- Nội Dung Quản Lí Hoạt Động Dạy Học Môn Lịch Sử - Địa Lý Theo Hướng Tích Hợp
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Tại Trường Trung Học Cơ Sở
- Kết Quả Đánh Giá Thực Trạng Hoạt Động Dạy Học Môn Lịch Sử - Địa Lý Theo Hướng Tích Hợp Ở Huyện Xín Mần, Tỉnh Hà Giang
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Nội dung dạy học Môn Lịch sử - Địa lý: Môn lịch sử và Địa lý gồm phân môn Lịch sử và phân môn Địa lý, mỗi phân môn được thiết kế theo mạch kiến thức riêng. Tính kết hợp của môn học được thể hiện ở 3 cấp độ: Tích hợp trong từng nội dung lịch sử và nội dung địa lý; Tích hợp nội dung lịch sử trong những phần phù hợp bài địa lý và tích hợp phù hợp những nội dung địa lý trong các bài lịch sử; Tích hợp theo các chủ đề chung.
Mạch nội dung của phân môn Lịch sử được sắp xếp theo logic thời gian lịch sử từ thời nguyên thủy, qua cổ đại, trung đại, đến cận đại và hiện đại. Trong từng thời kỳ, không gian lịch sử được tái hiện từ lịch sử thế giới, khu vực đến Việt Nam.
Mạch nội dung phân môn Địa lý được sắp xếp theo logic không gian là
chủ đạo, đi từ địa lý tự nhiên đại cương đến địa lý các châu lục, sau đó tập trung vào các nội dung của địa lý tự nhiên Việt Nam, địa lý dân cư và địa lý kinh tế Việt Nam. Mặc dù hai mạch nội dung được sắp xếp theo logic khác nhau, nhưng nhiều nội dung dạy học liên quan được bố trí gần nhau để hỗ trợ nhau. Có bốn chủ đề chung mang tính tích hợp cao được phân phối phù hợp với mạch nội dung chính của mỗi lớp, là: Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam; Đô thị - lịch sử và hiện tại; Văn minh châu thổ Sông Hồng và sông Cửu Long, các cuộc đại phát kiến địa lí.
Cách thiết kế như trên vừa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 88 về dạy học tích hợp, vừa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 113/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội “Tiếp tục giữ môn học Lịch sử trong chương trình sách giáo khoa mới”, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện chương trình. Do chương trình được thiết kế thành hai phân môn nên khi triển khai chương trình, mỗi giáo viên có thể dạy phần nội dung phù hợp với ngành đào tạo của mình trên cơ sở phân công phối hợp chặt chẽ với nhau.
- Phương pháp dạy học Môn Lịch sử - Địa lý:
+ Phương pháp dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên gọi khác như: Dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của mỗi lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
+ Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề.
+ Phương pháp giải quyết vấn đề: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học đặt ra trước học sinh các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề kích thích học sinh tự lực chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết
vấn đề.
+ Phương pháp đóng vai: Là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được.
+ Phương pháp trò chơi: Là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
+ Phương pháp dạy học theo dự án: Là phương pháp dạy học trong đó học sinh thực hiện một số nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành.
+ Phương pháp dạy học theo góc: Là phương pháp dạy học trong đó học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau.
+ Phương pháp thuyết trình: Là phương pháp dùng lời để trình bày.
+ Phương pháp giảng giải minh họa: Là phương pháp dùng lời ể giải thích nội dung kết hợp với dùng tài liệu trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
+ Phương pháp gợi mở vấn đáp: Là phương pháp không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn học tư duy từng bước để các em tự tìm ra kiến thức mới.
+ Phương pháp trực quan: Là phương pháp dạy học giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động trực tiếp trên các sự vật cụ thể thông qua đó nắm được những kiến thức và kỹ năng tương ứng.
+ Phương pháp thực hành luyện tập: Là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập các kiến thức kỹ năng của học sinh thông qua các hoạt động luyện tập, thực hành.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể; phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh đề cao vai trò chủ thể học tập của học sinh. Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, sử dụng hợp lý và hiệu quả các thiết bị dạy học như mô hình hiện vật, tranh lịch sử, ảnh, băng ghi âm lời nói các nhân vật lịch sử,...; bản đồ, sơ đồ, các bản thống kê, so sánh,...; phim video; các phiếu học tập các nguồn sử liệu; phần mềm dạy học... nhằm minh họa bài giảng của giáo viên và hỗ trợ các hoạt động học tập của sinh.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Môn Lịch sử - Địa lý theo hướng tích hợp: Là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời có giá trị về mức độ yêu cầu cần đạt và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Cần tiến hành kiểm tra, đánh giá thường xuyên vào đầu năm học, vấn đáp đầu giờ, trong giờ học, kiểm tra 15 phút, 1 tiết, giữa học kỳ, cuối học kỳ, cuối năm học. Kết hợp kiểm tự luận với trắc nghiệm.
Trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống cụ thể, không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức lịch sử hay địa lý làm trung tâm của việc đánh giá. Bên cạnh nội dung lý thuyết, cần coi trọng việc đánh giá các kỹ năng thực hành lịch sử, địa lý như làm việc với bản đồ, atlat, biểu đồ, sơ đồ, bảng số liệu, tranh ảnh; quan sát, xử lý và hệ thống hóa thông tin; sử dụng các dụng cụ học tập ngoài trời; sử dụng công nghệ thông tin truyền thông trong học tập...
Giáo viên đa dạng hóa các hình thức đánh giá: Đánh giá qua việc quan sát các hoạt động trên lớp; đánh giá qua hồ sơ học tập, sản phẩm học tập; đánh giá qua báo cáo kết quả giáo dục. Được đánh giá bằng cả định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ, trên cơ sở tổng hợp đánh giá chung về phẩm chất, năng lực và sự tiến bộ của học sinh.
1.3.3. Các yêu cầu đối với dạy học Môn Lịch sử - Địa lý theo hướng tích hợp
Các yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên: Được đào tạo đạt chuẩn trình độ theo quy định; Nhiệt tình, tâm huyết, yêu nghề; Chuyên môn nghiệp vững vàng, Thường xuyên học tập, nghiên cứu, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, cập nhật thường xuyên các dữ liệu thông tin, số liệu mới trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử - Địa lý; Sử dụng triệt để các loại đồ dùng, thiết bị dạy học.
- Các yêu cầu đối với cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục:
+ Về cơ sở vật chất phải đảm bảo theo quy định về: Phòng học, bảng, bàn ghế giáo viên, học sinh về diện tích, số lượng, quy cách, kích thước, vật liệu, kết cấu, kiểu dáng, màu sắc phù hợp với lứa tuổi học sinh.... ngoài ra mỗi đơn vị trường học căn cứ vào thực tế phải bố trí, sắp xếp khuôn viên, sân chơi, bãi tập... để học sinh được vui chới và học tập hiệu quả.
+ Về thiết bị giáo dục phải đảm bảo thiết bị dạy học tối thiểu, đặc biệt đối với môn học Lịch sử - Địa lý phải có mô hình hiện vật, tranh lịch sử, ảnh, băng ghi âm lời nói các nhân vật lịch sử,...; bản đồ, sơ đồ, các bản thống kê, so sánh,...; phim video, atlat, biểu đồ, các tài liệu, tư liệu tham khảo và các máy móc cần thiết khác....
+ Thực hiện theo chương trình giáo dục nhà trường, đặc biệt với môn Lịch sử - Địa lý, cần thu thập và tài liệu hoá để đưa vào chương trình giáo dục môn Lịch sử - Địa lý các thông tin về lịch sử, địa lý của địa phương; khuyến khích giáo viên xây dựng các chủ đề dạy học tìm hiểu về văn hoá, lịch sử, danh lam thắng cảnh và địa hình địa lý của phương lồng ghép vào trong môn Lịch sử - Địa lý.
1.4. Quản lý hoạt động dạy học Môn Lịch sử - Địa lý theo tích hợp cho học sinh trung học cơ sở
1.4.1. Khái niệm
- Khái niệm Quản lý giáo dục
Nếu xem quản lý là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi hoạt động xã
hội thì quản lý giáo dục cũng là một thuộc tính tất yếu của mọi hoạt động giáo dục có mục đích. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về lý thuyết quản lý giáo dục và thực tế cho thấy cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, có thể kể đến một số quan điểm chủ yếu sau:
Theo P.V.Khuđôminxki thì: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống giáo dục nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục chủ nghĩa cộng sản và đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hòa cho thế hệ trẻ”. [33]
Tác giả M.I.Kônđacốp, cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống.... nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm trí của trẻ em”. [18]
Ở Việt Nam, dựa trên các lý luận khoa học và thực tiễn giáo dục, nhiều tác giả đã đưa ra các các khái niệm về quản lý giáo dục
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, khái niệm quản lý giáo dục là khái niệm đa cấp (bao hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của nó, đặc biệt là quản lý trường học): “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thải mới về chất”. [24]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành tiến tới mục tiêu đào tạo theo nguyên lý giáo dục” [1].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là quản lý hoạt động dạy
và học nhằm đưa nhà trường từ trạng thái này sang trạng thái khác và dần đạt tới mục tiêu giáo dục đã xác định” [14]
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” [17] Theo các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Chí: “Quản lý giáo dục là quá trình tác động có kế hoạch, có tổ chức của các cơ quan quản lý giáo dục các cấp tới các thành tố của quá trình dạy học - giáo dục nhằm là cho hệ thống giáo dục vận hành có hiệu quả và đạt mục tiêu giáo dục nhà nước đề ra”, [21]
Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục, song thường người ta đưa ra quan niệm quản lý giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô. Quản lý vĩ mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản lý vi mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường.
Qua các khái niệm trên, có thể hiểu: Quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đưa hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu dự kiến và tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục vừa là một hiện tượng xã hội (hiện tượng hoạt động, lao động, công tác), vừa là một loại quá trình xã hội (quá trình quản lý) đồng thời cũng là một hệ thống xã hội (hệ thống quản lý).
- Quản lý nhà trường
Nhà trường là một cơ cấu tổ chức, cũng là một bộ phận cấu thành của một hệ thống giáo dục. Nó là bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân trực tiếp làm công tác giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai của đất nước. Nhà trường là nơi tổ chức thực hiện và quản lý quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể, người được giáo dục và người giáo dục. Trong quá trình giáo dục hoạt động của hai chủ thể này luôn gắn bó, tương tác, hỗ trợ nhau