Kiểm Tra, Kiểm Soát Quá Trình Đầu Tư Xây Dựng Và Cải Tạo, Nâng Cấp, Bảo Trì Đường Giao Thông Nông Thôn

bảo dưỡng đường giao thông nông thôn phụ thuộc vào mức sống từng địa

phương, còn lại hầu như bị thả nổi. Điều quan trọng bây giờ là phải nâng cao ý thức của mỗi người dân trong việc bảo vệ con đường, đồng thời thay đổi nhận thức của mọi người từ các nhà quản lý về việc nâng cấp và bảo dưỡng thường xuyên, tránh rơi vào tình trạng thích xây mới hơn là bảo dưỡng.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và bảo dưỡng các công trình giao thông nông thôn, Nhà nước đã có nhiều dự án thiết thực góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các tổ chức quốc tế tham gia tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển của nông thôn Việt Nam như ngân hàng thế giới (WB) và Chính phủ Anh (DFID), Ngân hàng châu Á, dự án của Cộng đồng Châu Âu, dự án của Chính phủ Nhật Bản...

2.1.4.5 Kiểm tra, kiểm soát quá trình đầu tư xây dựng và cải tạo, nâng cấp, bảo trì đường giao thông nông thôn

Quá trình đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp các công trình đường giao thông nông thôn có quy mô lớn, cần áp dụng theo trình tự đầu tư xây dựng cơ bản, có sự tham gia của các nhà thầu tư vấn có tư cách pháp nhân như: tư vấn thiết kế, giám sát thi công...

Thực hiện tốt vai trò giám sát cộng đồng đối với công tác xây dựng đường GTNT, nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và đạt được mục tiêu đề ra.

Thực hiện kiểm soát nội bộ trong toàn ngành.

Tổ chức theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, động viên kịp thời các cơ sở, cá nhân trong quá trình triển khai thực hiện.

Tổng kết và rút ra những bài học kinh nghiệm để phát triển giao thông nông thôn ngày càng tốt hơn.

2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn, nhưng tựu lại thành các nhóm yếu tố cơ bản sau: (1) Yếu tố khách quan; (2) Yếu tố chủ quan; (3) Thể chế và pháp luật; (4) Cơ chế đầu tư và quản lý; (5) Phong tục tập quán cộng đồng dân cư.

2.1.5.1 Yếu tố khách quan

Quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam - Dương Văn Hội - 6

Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế là nói đến các hoạt động của con người có liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.

Cùng với sự phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn, nhu cầu giao thông của xã hội ngày càng tăng, lưu lượng tham gia giao thông của các phương tiện vận tải có tải trọng lớn ngày một gia tăng, làm cho tải trọng tác động lên kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn với cường độ ngày càng lớn; bên cạnh đó mật độ phương tiện và người tham gia giao thông không ngừng gia tăng, trong khi khả năng phục vụ của hệ thống đường giao thông nông thôn có giới hạn. Khi nhu cầu giao thông vượt giới hạn khả năng phục vụ của hệ thống đường giao thông nông thôn, sẽ gây lên những tác động ảnh hưởng đến quá trình khai thác sử dụng các tuyến đường ở khu vực nông thôn, dẫn đến tình trạng hệ thống đường giao thông nông thôn cần phải được phát triển để đáp ứng, theo kịp sự phát triển của các ngành kinh tế và tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá ngày càng gia tăng; từ đó làm nảy sinh những vấn đề cần giải quyết đối với kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn.

Chính những tác động nói trên của yếu tố kinh tế đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn. Các yếu tố kinh tế là những yếu tố khách quan, tác động đến công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn, làm cho nhu cầu đầu tư xây dựng, cải tạo và bảo trì hệ thống đường giao thông nông thôn luôn tăng cùng tốc độ phát triển kinh tế. Nếu công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn không đáp ứng

được nhu cầu phát triển của các yếu tố

kinh tế, sẽ

dẫn đến tình trạng hệ

thống đường giao thông nông thôn yếu kém, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế.

Trong điều kiện các nguồn lực còn rất hạn hẹp, để giải quyết những vấn đề nêu trên, đòi hỏi công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn phải thường xuyên được hoàn thiện và thực hiện một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Thực tế đặt ra vấn đề quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn không chỉ ở quá trình đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp mở rộng các tuyến đường; mà còn phải thực hiện quản lý trong quá trình khai thác sử dụng sau quá trình đầu tư.

Người dân địa phương rất phấn khởi về

các dự

án làm đường giao

thông của huyện và của xã, bởi vì lợi ích to lớn mà đường giao thông sẽ mang lại cho họ. Có nhiều hộ cho rằng cuộc sống của gia đình họ được cải thiện nhờ có đường giao thông nông thôn. Sức lao động trong nông thôn được giải phóng và họ không phải gồng gánh trĩu nặng như trước đây nữa. Nhiều người dân đã được chăm sóc sức khoẻ tại trạm y tế của xã nhất là những phụ nữ và trẻ em. Việc đi đến bệnh viện, ra chợ hay đi đến trường học trở nên thuận tiện hơn nhiều, giảm được nhiều thời gian và chí phí. Thị trường cũng như việc buôn bán của người dân được cải thiện.

Dù vậy, song do hạn chế về nguồn lực (vốn, lao động, đất đai…), mức sống của dân cư nông thôn nói chung còn thấp, tỷ lệ các hộ nghèo còn ở mức cao, nhận thức của người dân nông thôn trong việc tham gia xây dựng đường GTNT còn chưa cao, nên song song với việc xây dựng các con đường giao thông nông thôn cần hình thành một hệ thống chính sách nhất là chính sách đầu tư của mọi thành phần kinh tế và cần phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả đầu tư, kết hợp với tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng đểhọ từ chỗ thụ động trông chờ vào nhà nước, trở nên tự giác tham gia tích cực vào các chương trình làm đường giao thông nông thôn.

2.1.5.2 Yếu tố chủ quan

Xã hội loài người không ngừng phát triển cả về lượng và chất, biểu hiện của nó là sự hình thành các cộng đồng dân cư. Những cộng đồng dân cư có những đặc trưng riêng biệt như những xã hội nhỏ và trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề và các thiết chế xã hội. Trong lịch sử phát triển của mình, con người càng tiến bộ, văn minh thì các dạng thức tổ chức xã hội và hoạt động của con người càng đa dạng và phức tạp, ở đó có sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại... Về mặt tổ chức, các yếu tố xã hội bao gồm: hệ thống các cơ quan quyền lực, các đại diện cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt động đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đồng và cá nhân; giải quyết các vấn đề xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, vấn đề an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng...

Các yếu tố, các vấn đề xã hội luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều chỉnh hành động của các bộ phận trong cộng đồng và của các thành viên; kết hợp hài hoà các bộ phận, đảm bảo sự ổn định của cộng đồng, xoay quanh việc thỏa mãn những nhu cầu xã hội căn bản của con người như: môi trường sống, lao động, học tập, sinh hoạt – vui chơi, giải trí, sự đi lại, giao lưu văn hóa…

Quá trình đô thị hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới hiện nay, là một tất yếu trong quá trình phát triển xã hội nông thôn. Bao gồm việc duy trì và phát triển không gian sống của cộng đồng dân cư, tạo ra kiến trúc, cảnh quan hiện đại ở khu vực nông thôn. Việc mở rộng, quy hoạch, xây dựng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân trong các lĩnh vực lao động sản xuất, sinh hoạt – vui chơi, giải trí… đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề lao động và việc làm của toàn xã hội và cộng đồng dân cư. Quá trình này

gắn liền và

ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển hệ

thống đường giao

thông trên địa bàn huyện.

Việc quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn nhằm mục đích

thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của xã hội, đó là: xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Ngược lại các vấn đề, các yếu tố xã hội có tác động trở lại đối với công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn, đòi hỏi công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn phải được hoàn thiện, phù hợp với các vấn đề xã hội đặt ra trong từng thời kỳ và phải thỏa mãn những nhu cầu lợi ích mà cộng đồng xã hội mong muốn được đáp ứng.

Hầu hết người dân nông thôn đều cho rằng giao thông nông thôn là rất quan trọng, Với họ, thì việc nâng cấp và cải tạo đường thôn còn quan trọng hơn là cải tạo đường xã. Do thu nhập bình quân của họ còn thấp nên sự tham gia đóng góp làm đường giao thông nông thôn chưa nhiều. Thời gian thi công các tuyến đường thường bị kéo dài, chất lượng đối với mặt đường cấp phối

nhanh bị

xuống cấp. Các nguồn lực cho việc bảo dưỡng định kỳ

tại địa

phương lại rất ít; nên các con đường bị xuống cấp đã gây bụi bặm vào mùa khô, lầy lội vào mùa mưa gây khó khăn cho việc tham gia giao thông của người và phương tiện giao thông.

Việc chia sẻ thông tin về các dự án làm đưòng giao thông nông thôn còn ít đối với người dân. Thông tin mà người dân nhận được chủ yếu là các thông tin về giải phóng mặt bằng và hiến đất để làm đường. Người dân không được cung cấp những thông tin cơ bản về các dự án đường giao thông nông thôn ở

tại đại phương nơi họ sinh sống. Họ muốn vai trò của họ trong các dự án

đường ô tô (liên huyện, liên xã) được tăng lên. Và họ muốn rằng họ là người đầu tiên được hưởng lợi và là những người có liên quan chặt chẽ đến chất lượng và sự bền vững của các con đường giao thông này.

Người dân muốn tham gia trực tiếp vào việc thiết kế và giám sát thi công các con đường tại địa phương. Vấn đề cần thiết ở đây là công tác hỗ trợ

thông tin, công tác truyền thông phải được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả để có được kết quả trong vấn đề nhận thức để người dân có thể tham gia tích cực vào việc cải tạo đường giao thông nông thôn cũng như cải tạo đường thôn xóm. Phụ nữ và người nghèo do thiếu kiến thức về kỹ thuật, địa vị thấp và kiến thức hạn chế nên không có tiếng nói và bị hạn chế tham gia vào các dự án giao thông nông thôn.

2.1.5.3 Thể chế và pháp luật

Thể chế và luật pháp là tổng hợp các phương pháp và cách thức thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể, các hành vi và các quan hệ trong xã hội.

Các yếu tố Thể chế, luật pháp có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực trên một lãnh thổ, các yếu này có thể ảnh hưởng đến bất cứ ngành, hoặc lĩnh nào. Khi thực hiện quản lý trên một đơn vị hành chính, hệ thống quản lý sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế, luật pháp tại khu vực đó.

Có nhiều thể chế như: thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành chính nhà nước, thể chế xã hội..., chẳng hạn thể chế chính trị ở nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng pháp chế xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ, tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội và sự tham gia tích cực của công dân vào các công việc của nhà nước và xã hội; còn thể chế hành chính nhà nước được hiểu là bao gồm toàn bộ các cơ quan hành chính nhà nước và toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời quy định các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong của các cơ quan hành chính nhà nước; còn thể chế kinh tế bao

gồm các yếu tố

chủ

yếu: các đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc, các quy

chuẩn, tiêu chuẩn... về kinh tế gắn với các chế tài xử lý; các tổ chức kinh tế; cơ chế vận hành nền kinh tế.

Như vậy, cũng như các vấn đề khác trong xã hội, công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn chịu sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố thể chế và pháp luật, nó đòi hỏi công tác quản lý hệ thống đường giao thông nông thôn phải được thực hiện theo hành lang pháp luật quy định.

Do việc quản lý hiện nay còn thiếu các qui định rõ ràng, chưa phù hợp với thực tế đang phát triển. Việc xây dựng quy định chỉ mang tính tương đối,

không phù hợp với điều kiện, thực tế của nhiều vùng hoặc đôi khi chỉ mang tính chất cho có. Bên cạnh đó vẫn còn thiếu các hướng dẫn cụ thể để có thể quản lý tốt lĩnh vực xây dựng, quản lý và khai thác các công trình giao thông nông thôn. Trong thời gian tới cần khắc phục những yếu điểm này để việc quản lý đi vào khuôn khổ và tạo tiền đề cho những nội dung khác.

2.1.5.4 Cơ chế đầu tư và quản lý

Bao gồm nội dung quản lý và bộ máy quản lý. Hai yếu tố này tạo thành cấu trúc của cơ chế quản lý, chúng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, qui định lẫn nhau. Nội dung quản lý càng rộng lớn, phức tạp thì bộ máy quản lý càng phong phú. Bộ máy quản lý càng đa dạng, năng động thì các yếu tố tạo nên bộ máy (các cơ quan nhà nước, cán bộ quản lý) càng phải được tổ chức tinh vi, khoa học, cán bộ quản lý càng phải có trình độ cao.

Cơ chế quản lý Nhà nước trên lĩnh vực giao thông nói chung và trên lĩnh vực giao thông nông thôn nói riêng là một bộ phận của cơ chế quản lý nhà nước nói chung, bao gồm nội dung quản lý và bộ máy quản lý, nhằm thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực giao thông theo qui luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung quản lý Nhà nước về giao thông bao gồm các thành tố: chiến lược, các chương trình mục tiêu, hệ thống pháp luật kinh tế, các chính sách và đòn bẩy kinh tế... Về bộ máy quản lý bao gồm một hệ thống các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước như đặt ra chính sách, pháp luật đến các cơ quan trực tiếp quản lý Nhà nước về giao thông...

Giữa các yếu tố của nội dung quản lý và bộ máy quản lý đều có tác động qua lại và qui định lẫn nhau, tồn tại trong hệ thống tạo thành cơ chế đầu tư và quản lý. Nếu cơ chế đầu tư và quản lý phù hợp sẽ có tác động thúc đẩy các quá trình xã hội phát triển, hệ thống đường giao thông nông thôn sẽ được đầu tư và quản lý tốt, đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngược lại, cơ chế đầu tư và quản lý không phù hợp, các yếu tố của cơ

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 12/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí