Người Dân Nông Thôn Ngày Càng Được Tiếp Cận Tốt Hơn Tới Hệ Thống An Sinh Xã Hội


Những thay đổi tích cực trong chính sách chăm sóc sức khỏe ban đầu trong thời gian qua cũng đã được cộng đồng thế giới công nhận như là một thành tựu của Việt Nam góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ hiện nay. Đó cùng là nhờ vào các chính sách xã hội của Việt Nam đi đúng hướng và khá sát với yêu cầu của xã hội; chủ trương đa dạng hóa các nguồn tài chính cho phát triển y tế nói chung và khu nực nông thôn nói riêng.

Thứ ba, trong lĩnh vực cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT) nông thôn thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số

104/2002/QĐ-TTg ngày 25-8-2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

chiến lược quốc gia về cấp NS&VSMT nông thôn đến năm 2020. Mục tiêu của Chương trình là đến năm 2010 có 85% dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60 lít/ngày; 70% gia đình và dân cư nông thôn sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân. Đến năm 2020, tất cả dân cư nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia với số lượng 60 lít/người/ngày, 95% số hộ dân nông thôn sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, giữ vệ sinh môi trường làng xã. [3], [15]

Ngoài ra, trong nhiều chương trình dự án về phát triển CSHT nông thôn đều có các hoạt động cung cấp nước sạch gắn với thủy lợi và môi trường. Ví dụ, các dự án thuỷ lợi: tiếp tục đầu tư đồng bộ các công trình hồ chứa nước nhỏ, công trình đầu mối đến các kênh mương, kiên cố hoá kênh mương; các công trình thuỷ lợi nhỏ ở các xã đặc biệt khó khăn. Khởi công mới một số công trình: thoát lũ Sơn La, hồ Chiềng Khoi, dự án thử nghiệm tưới chè Sơn La, thuỷ lợi Na Hỳ-Lai Châu, cụm công trình thuỷ lợi Chợ Đồn, Bắc Kạn, Xín Mần và Yên Minh, Hà Giang, Lý Vạn, Hạ Lang, Bắc Trùng Khánh, Cao Bằng, Cốc Ly và hệ thống thuỷ lợi Than Uyên, Lào Cai. Ưu tiên đầu tư xây kè chống sạt lở bờ sông, suối, mốc biên giới; ưu tiên vốn đầu tư xây dựng CSHT ở các vùng tái định cư lòng hồ thuỷ điện Sơn La, để bảo đảm đồng bào đủ các điều kiện để phát triển sản xuất, sớm ổn định và có cuộc sống tốt hơn so với nơi ở cũ [51].


Để đạt mục tiêu đến năm 2010, 85% dân cư nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh, Chính phủ giao Chương trình cung cấp nước sạch cho Bộ NN&PTNT làm chủ. Hàng năm, Bộ NN&PTNT xây dựng các dự án cụ thể trình cấp có thẩm quyền xem xét và cùng với Ban chỉ dạo quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, các ngành, Bộ và địa phương liên quan thực hiện lồng ghép các chương trình và xã hội hoá việc cung cấp nước sạch &VSMT nông thôn. Tổng nhu cầu vốn cho toàn chương trình từ năm 2000 đến năm 2020 vào khoảng 4.500 tỷ đồng được huy động từ các nguồn ngân sách nhà nước, huy động trong dân, các thành phần kinh tế, lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia khác trên địa bàn, vốn tài trợ của các

tổ chức quốc tế.

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0


ơ


Số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung


Sỗ xã có xây hệ thống thoát nước thải chung

40


35.3

27.0

3024

12.5

2450

1136

35


30


25


20


15


10


5


0

Số xã có tổ chức thuê gom rác thải


Số luợng Tỷ lệ


Hình 2.8: Số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung và thực hiện các hoạt động về vệ sinh môi trường trên cả nước năm 2006


Nguồn: [4]

Từ năm 1999 đến năm 2002, chương trình đã huy động được 3.160 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ 19%, nguồn khác 22%, viện trợ quốc tế 13%, vốn tham gia của dân 46%, bình quân mỗi năm đầu tư 800 tỷ đồng. Nhờ đó, số dân được dùng nước sạch đã tăng từ 18% lên 50% và 62% vào năm 2006 (tham khảo bảng 2.3).


Vùng lãnh thổ

Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh

(%)

Đồng bằng Sông Hồng

65

Đông và Tây Bắc

38

Bắc Trung Bộ

56

Nam Trung Bộ

50

Tây Nguyên

39

Đông Nam Bộ

62

Đồng bằng Sông Cửu Long

35

Chung cả nước

50

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam - 14

Bảng 2.3: Tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh theo khu vực (năm 2005)


Nguồn: [15]

Trong giai đoạn 1999-2005, theo báo cáo tổng kết của Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn có khoảng 6,4 triệu hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh trong tổng số 12,8 triệu hộ. Tuy nhiên, sự phân bố lại không đồng đều ở các tỉnh thành và khu vực. Vùng Đồng bằng sông Hồng là nơi hộ nông dân có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn cao nhất (65% hộ gia đình), còn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, số hộ gia đình có tỷ lệ nhà tiêu hợp vệ sinh thấp nhất trong cả nước (35% hộ gia đình).

Mỗi năm Việt Nam có khoảng 8.600 tấn rác thải nông nghiệp nguy hiểm được đưa vào môi trường gồm hóa chất nông nghiệp và các hộp đựng hóa chất nông nghiệp. Đồng thời hiện đang có khoảng 27.000 tấn hoá chất bất hợp pháp để trong kho đợi tuy hủy. Công việc xử lý rác cũng đòi hỏi những khoản chi đáng kể. Vì vậy, đến năm 2006, trên toàn quốc mới có 27% xã có tổ chức thu gom và xử lý rác. Còn lại biện pháp xử lý rác thải thường bằng phương pháp đốt hoặc dùng hóa chất do đó dẫn đến những tác động xấu đối với người dân bởi tro và khỏi chứa kim loại nặng: điôxin và Furan [49].


2.2. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Mức độ tác động của hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam hiện nay

2.2.1.1. Người dân nông thôn ngày càng được tiếp cận tốt hơn tới hệ thống an sinh xã hội

Trước năm 1998, hệ thống ASXH đối với nông dân chỉ bao gồm các chính sách liên quan đến trợ giúp xã hội cho những đối tượng yếu thế ở khu vực nông thôn, thì giờ đây người nông dân có cơ hội tiếp cận đầy đủ tới các hình thức của chương trình an sinh xã hội. Thông qua các chương trình MTQG về XĐGN, NS & VSMT nông thôn, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ... người nông dân ngoài việc được hưởng các hình thức trợ giúp xã hội còn có cơ hội tiếp cận tới các dịch vụ xã hội cơ bản.

Thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã kết hợp với các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tiến hành giúp đỡ những đối tượng khó khăn thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Hàng năm có khoảng 1- 1,5 triệu người Việt Nam được trợ giúp tiền và hiện vật nhằm ổn định cuộc sống sau những đợt thiên tai, bão lụt, mất mùa… Số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội ngày một tăng, từ 181.642 người (2001) lên 329.674 người (2004) và 560.000 người (2007); trong đó số người nghèo được phát thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh là 15.175 nghìn người (chiếm khoảng 83% số người nghèo trong cả nước). Nhờ củng cố và phát triển mạng lưới y tế rộng khắp trong cả nước: 99,3% xã đã có trạm y tế, trên cả nước 89,2% thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động, trên 60% trạm y tế xã có bác sĩ nên người dân nông thôn được chăm sóc tốt hơn về sức khoẻ [13], [41].

Hệ thống trường học, giáo dục mầm non ở nông thôn tiếp tục được mở rộng và phát triển: đến năm 2006 có 9.047 (99,6%) xã có trường tiểu học, tăng 121 xã so với năm 2001; 91,2% số xã có trường trung học cơ sở (năm 1994 chỉ là 76,6%, năm 2001 con số này là 84,4%); 10,8% số xã có trường trung học phổ thông (năm 1994:


7%, năm 2001: 8,5%); 88,9% số xã có trường mẫu giáo/mầm non. Cùng với sự phát triển của hệ thống trường học tại cấp xã, các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo phát triển, mở rộng đến cấp thôn. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng điều tra nông thôn nông nghiệp và thủy sản năm 2006, cả nước hiện có 53,7% số thôn có lớp mẫu giáo; 16,2% số thôn có nhà trẻ. Việt Nam đã công bố xoá xong nạn mù chữ và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, bắt đầu phổ cập bậc trung học cơ sở. Đặc biệt, con em hộ gia đình nghèo đã được Nhà nước hỗ trợ để có điều kiện đến trường, hàng năm, có trên 3 triệu lượt học sinh nghèo và học sinh dân tộc thiểu số được miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường [3].

Điện khí hoá nông thôn được thực sự coi trọng và đã đạt những kết quả rất khả quan. Nếu năm 1994, cả nước mới có 60,4% số xã, 50% số thôn và 53% số hộ có điện, năm 2001 các con số tương ứng là 86%, 77% và 79% thì đến năm 2006 có tới 99% số xã, 92,8% số thôn có điện và tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng điện đã lên tới 93,3% và tiếp tục tăng lên 97,4% năm 2007. Như vậy, đến năm 2007 khu vực nông thôn chỉ còn 2,6% số hộ chưa được sử dụng điện. Tỷ lệ hộ dùng điện tăng nhanh ở các vùng mà trước đây người nông dân ít được tiếp cận tới điện như Tây Nguyên (hộ dùng điện tăng 90% so với năm 2001), Tây Bắc (tăng 74%), Đồng bằng sông Cửu Long (tăng 51%). Đặc biệt hơn cả là tình hình sử dụng điện của các hộ tăng mạnh ở Cà Mau (gấp 3,3 lần), Bạc Liêu (gấp 3,2 lần), Gia Lai (gấp 2,3 lần). [98]

Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", giao thông nông thôn có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Theo kết quả tổng hợp sơ bộ, đến năm 2006 cả nước 96,7% xã có đường ôtô đến trụ sở Uỷ ban nhân dân xã (năm 1994 là 87,9% và năm 2001 là 94,5%). Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ cao nhất: 99,5%, thấp nhất là các vùng Tây Bắc: 80,8% và Đồng bằng sông Cửu Long: 81,4%. Điều chú ý là cùng với việc mở rộng và nâng cấp đường giao thông đến trung tâm xã, hệ thống đường giao thông nội bộ xã - liên thôn đã được nâng cấp đáng kể: có 3.865 xã (chiếm 42,6%) đường liên thôn được nhựa, bê tông hoá trên 50% (năm 2001 chỉ có 15%) (tham khảo hình 2.9)



120


100


97.4 99.3 99.6


80

62

60


40


20


0

Số HGĐ khu vực nông thôn tiếp cận nước sạch


Số HGĐ khu vực nông thôn tiếp cận điện


Số làng có trạm y tế xã


Số xã có trường học



Hình 2.9: Sự phát triển của hệ thống DVXHCB ở nông thôn Việt Nam (năm 2006)

Nguồn: [3]


2.2.1.2. Tạo nhiều việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế

Trong 5 năm 2001-2005, lao động có việc làm trong khu vực nông thôn tuy tăng về số lượng, từ 29.199 nghìn người năm 2001 lên 32.953 nghìn người năm 2005, nhưng tỷ trọng các hộ nông dân làm nông nghiệp có xu hướng giảm dần phù hợp với quá trình CNH, HĐH. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tạo điều kiện cho người nông dân giảm thời gian nhàn rỗi trong lao động. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn tăng liên tục từ 74,37% (năm 2001) lên 81,4% (năm 2006), cũng có nghĩa là tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn từng bước được cải thiện. [57],[58]

Chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung, khu vực nông thôn nói riêng theo hướng tích cực, tỷ lệ số hộ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp liên tục giảm từ 80,9% năm 2001 xuống 71% năm 2006, trong khi đó các hộ gia đình trong khu vực nông thôn tiến hành các hoạt động công nghiệp và xây dựng tăng từ 5,8% (2001) lên 10% (2006), các hộ làm dịch vụ cũng tăng từ 10,6% lên 14,8% ở những năm tương ứng (tham khảo bảng 2.4).


Nhìn chung tỷ lệ hộ gia đình nông thôn làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đều giảm và tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn làm việc trong những ngành dịch vụ, xây dựng công nghiệp, thương mại... tăng lên, nhưng việc biến đổi cơ cấu này lại không đồng đều giữa các vùng.

Bảng 2.4: Số lượng và cơ cấu hộ nông thôn phân theo vùng (năm 2006)



Cả nước

Số lượng

Cơ cấu

2001

2006

2001

2006

1.3 06.756

13.775.674

100,0

100,0

Hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản

10.573.597

9.776.090

80,9

71,0

Hộ nông nghiệp

10.106.615

9.141.151

95,6

93,5

Hộ lâm nghiệp

24.343

30.785

0,2

0,3

Hộ thủy sản

442.639

604.154

4,2

6,2

Hộ công nghiệp và xây dựng

752.204

1.374.174

5,8

10,0

Hộ công nghiệp

596.594

980.132

79,3

71,3

Hộ xây dựng

155.610

394.042

20,7

28,7

Hộ dịch vụ

1.381.251

2.040.973

10,6

14,8

Hộ thương nghiệp

748.271

1.120.924

54,2

54,9

Hộ vận tải

129.809

194.215

9,4

9,5

Hộ dịch vụ khác

503.171

725.834

36,4

35,6

Hộ khác

358.704

584.437

2,7

4,2

Nguồn: [3]

Trong giai đoạn từ năm 2001 năm đến 2006, mặc dù tỷ lệ hộ gia đình nông thôn chuyển mô hình kinh tế từ NLN nghiệp sang các mô hình kinh tế khác ở vùng Đồng bằng sông Hồng là đáng kể nhất (gần 20% số hộ gia đình nông thôn chuyển từ NLN nghiệp sang các hình thức hoạt động khác). Tuy nhiên, vùng Đông Nam Bộ vẫn được biết đến như vùng có sự chuyển biến cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ nhất bởi có trên 45% hộ gia đình nông thôn trong khu vực này tiến hành các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Trong khi đó khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc tỷ lệ hộ gia đình


nông thôn chuyển đổi ngành nghề kinh tế lại không cao. Phần lớn các hộ gia đình trong hai khu vực này vẫn sống nhờ vào hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp.


100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0


2001 2006 2001 2006

NLN nghiệp Ngành nghề khác


Đồng bằng sông Hồng Đông Bắc

Tây Bắc

Bắc Trung Bộ

Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Cửu Long


Hình 2.10: Cơ cấu chuyển dịch lao động khu vực nông thôn từ nông, lâm nghiệp, thủy sản sang dịch vụ

Nguồn: [3]


2.2.1.3. Xoá đói giảm nghèo nhanh, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nông thôn

Quan sát thực trạng việc làm và tình hình làm việc ở khu vực nông thôn giai đoạn 1998 - 2006, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng tác động của chúng tới tình hình xóa đói giảm nghèo là đáng kể. Thật vậy, khi sử dụng số liệu điều tra về thời gian sử dụng lao động trong khu vực nông thôn và tỷ lệ hộ giảm nghèo qua các năm, sử dụng hàm Cobb-Douglas kết hợp với phần mềm Eviews ta có được hàm số về mối quan hệ giữa tăng thời gian làm việc trong khu vực nông thôn với tình trạng giảm nghèo trong các hộ gia đình ở Việt Nam. Cụ thể như sau:

TLHGN = β1*TGLVNTβ2 (8)

Ln(TLHGN) = Ln β1 + β2Ln(TGLVNT)

Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 03/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí