Nghề, Dạy Nghề, Đào Tạo Nghề, Quản Lý Đào Tạo Nghề

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO NGHỀ

CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN


1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của lao động nông thôn trong thực hiện chính sách nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tại Hội nghị lần thứ Bảy, Khoá X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 05/8/2008, Nghị quyết chỉ rõ: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới....Phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”. Để cụ thể hoá Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Mục tiêu của đề án trong giai đoạn 2011 – 2015, đào tạo nghề cho 5,2 triệu lao động nông thôn; trong giai đoạn 2016 – 2020, đào tạo cho 6,0 triệu lao động nông thôn”. Đó là đường lối, chính sách đúng đắn và có ý nghĩa quan trọng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế -xã hội đất nước nhanh và bền vững.

Có thể nói nhu cầu học nghề của lao động nông thôn đang rất lớn nhưng thực tế một số bộ, ngành, địa phương và cả người lao động cũng chưa nhận thức đúng, chưa thực sự quan tâm tới việc học nghề. Trong khi đó, các cơ chế, chính sách về đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới sự chồng chéo, kém hiệu quả và bất cập như bị giới hạn về đối tượng, thời gian đào tạo và mức hỗ trợ chi phí đào tạo thấp. Cùng với đó là công tác dự báo thị trường lao động quá thiếu, không đầy đủ và thiếu kịp thời

khiến người lao động lúng túng trong việc lựa chọn nghề, tìm kiếm việc làm sau khi học nghề. Điều này lý giải vì sao nhiều lao động trong độ tuổi dù chưa có nghề nhưng khi được hỏi cần học nghề gì thì họ lúng túng như gà mắc tóc vì thực sự không biết trả lời ra sao, vì họ biết lấy thông tin ở đâu.

Năm 2002, tác giả Tạ Thị Diễm với luận văn Thạc sỹ, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn ở huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên”. Đề tài đã mô tả, đánh giá thực trạng lao động nông thôn và nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình sử dụng lao động tại cơ sở. Thông qua đó đưa ra giải pháp hợp lý và phù hợp nhất đối với từng loại lao động, từng loại ngành nghề trên địa bàn nghiên cứu.

Năm 2003, tác giả Nguyễn Chí Thuận với luận văn Thạc sỹ, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương”. Đề tài đã nêu rõ được thực trạng lao động, việc làm trên địa bàn huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương và thông qua đó tìm ra nguyên nhân, các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của lao động nông thôn và sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, tìm ra biện pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn phù hợp với điều kiện của huyện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Trong thời gian qua công tác đào tạo nghề, quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở tỉnh Hải Dương nói chung và ở trung tâm KTTH Hướng nghiệp Dạy nghề Thanh Miện nói riêng chưa hiệu quả. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm thế nào để tăng cường hơn nữa việc đào tạo, quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các hộ nông dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương. Muốn vậy, cần đánh giá một cách tổng quát thực trạng lao động, việc làm và thực trạng công tác quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở trung tâm KTTH Hướng nghiệp Dạy nghề Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp về quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm khắc phục

những mặt tồn tại và nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc tăng cường Hoạt động quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở trung tâm KTTH Hướng nghiệp - Dạy nghề Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề Thanh Miện, tỉnh Hải Dương - 3

1.2. Các khái niệm cơ bản

1.2.1. Nghề, Dạy nghề, đào tạo nghề, quản lý đào tạo nghề

- Nghề: là thuật ngữ để chỉ mọi hình thức lao động, là mọi việc làm theo sự phân công của xã hội. Con người thông qua việc hành nghề để kiếm sống nhằm duy trì bản thân và xây dựng đất nước. Nghề nằm trong một ngành hay một nhóm nghề nào đó. Nghề được sinh ra, phát triển trong sự phát triển tiến bộ của xã hội, có những nghề ra đời và phát triển lâu dài thì trở thành nghề truyền thống, đồng thời cũng có những nghề mới du nhập do tiến bộ của khoa học kỹ thuật đem lại (Tài liệu SHHN, THPT tháng 8/2000 trang 74). Nghề có 3 cấp độ khác nhau: bán lành nghề, lành nghề và lành nghề ở trình độ cao. Bán lành nghề là được trang bị một phần kiến thức và kĩ năng của một nghề với các công việc đơn giản, quen thuộc lặp đi lặp lại nhiều lần trong một phần nhất định, khi phối hợp với các công việc khác cần có sự hướng dẫn và giám sát của những người có trình độ cao hơn. Lành nghề là được trang bị kiến thức và kĩ năng nghề ở diện rộng chuyên môn sâu, có khả năng đảm bảo được công việc phức tạp của nghề, biết phát hiện và sửa chữa những trục trặc kĩ thuật, có khả năng đưa ra một số sáng kiến cải tiến đơn giản trong phạm vi hẹp, có khả năng kiểm tra, hướng dẫn người khác một số công việc ở mức độ phức tạp trung bình, có tính độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân cao. Lành nghề ở trình độ cao là được trang bị kiến thức chuyên môn vững vàng, kĩ năng thành thạo, có khả năng tự vận hành được các thiết bị hiện đại và tự xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong một dây chuyền lao động, đọc và vẽ được hầu hết các bản vẽ kĩ thuật, các sơ đồ phức tạp trong nghề, có khả năng lãnh đạo một nhóm, một tổ về chuyên môn nghề nghiệp, giám sát và quản lý tốt các lao động bán lành nghề, lành nghề, có tính độc lập và chịu trách nhiệm cá nhân cao trong công việc,...

Theo giáo trình Kinh tế Lao động của trường Đại học kinh tế Quốc dân thì khái niệm nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao động của xã hội, là toàn bộ kiến thức (hiểu biết) và kĩ năng mà một người lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh vực lao động nhất định.

- Dạy nghề: là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến thức về lý thuyết và kĩ năng thực hành một số nghề nào đó để sau một thời gian nhất định người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới. Dạy nghề có 3 giai đoạn cơ bản:

+ Dạy nghề cho người chưa biết gì về nghề trở thành người bán lành nghề.

+ Dạy nghề cho người bán lành nghề trở thành người lành nghề.

+ Dạy nghề cho người lành nghề trở thành những người lành nghề ở trình độ cao.

- Đào tao nghề

+ Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế Quốc dân thì khái niệm đào tạo nghề là đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định

+ Theo tài liệu của Bộ Lao động thương binh và xã hội xuất bản năm 2002 thì khái niệm đào tạo nghề được hiểu đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao động những kiến thức, kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao động sau khi hoàn thành khoá học hành được một nghề trong xã hội".

Như vậy, khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang bị những kiến thức kĩ nãng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản. Điều này, thể hiện tính nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa, đề cao người lao động ngay trong quan niệm về lao động chứ không chỉ coi lao động là một nguồn "Vốn nhân lực", coi công nhân như cái máy sản xuất. Nó cũng thể hiện sự

đầy đủ hơn về vấn đề tinh thần và kỉ luật lao động - một yêu cầu vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất với công nghệ và kĩ thuật tiên tiến hiện nay.

- Quản lý đào tạo nghề

Quản lý đào tạo nghề là quản lý các khâu từ tuyển sinh, mục tiêu, kế hoạch, tổ chức đào tạo và kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo. Quản lý đào tạo nghề có nhiệm vụ chủ yếu là quản lý chương trình đào tạo, hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học viên, việc khai thác thiết bị dạy học để đổi mới phương pháp nhằm thực hiện quá trình truyền đạt kiến thức, tiếp thu kiến thức, chiếm lĩnh kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo, giáo dục ý thức thái độ, nghề nghiệp và cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp cho người học.

1.2.2. Lao động, lao động nông thôn

- Lao động: Là khái niệm chung dùng để chỉ con người khi tham gia vào các hình thức sản xuất nào đó trong xã hội. Người lao động có thể qua đào tạo và không qua đào tạo hoặc chưa qua đào tạo; Có thể là những lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp.

- Lực lượng lao động: Gồm những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.

- Lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn, trong đó độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật (nam từ 16-60 tuổi, nữ từ 16-55 tuổi) có khả năng lao động.

Đặc điểm chung của lao động nông thôn là lao động có trình độ thấp, đa số chưa qua đào tạo nghề, họ lao động sản xuất chủ yếu dựa vào thói quen, truyền thống địa phương kế thừa từ những thế hệ trước, năng xuất lao động thấp, không hiệu quả, thu nhập thấp.

1.3. Sự cần thiết phải đào tạo nghề cho lao động nông thôn

1.3.1. Về mặt lý luận

Đào tạo nghề có thể cung cấp một đội ngũ lao động có trình độ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Họ là những người đưa lí thuyết đến thực hành, đưa khoa học công nghệ vào sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.

C.Mác đã viết: "Những người công nhân tiên tiến hoàn toàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp mình mà cũng chính là tương lai của loài người tuỳ thuộc vào công tác giáo dục thế hệ công nhân trẻ ". (C.Mác Ph.ăng ghen. Tuyển tập xuất bản lần 2, tập 16, trang 198) [6].

Công tác đào tạo nghề cho mọi người để họ đi vào lao động sản xuất luôn là một yếu tố quan trọng trong việc tái sản xuất sức lao động vì thế mà công tác đó là một điều kiện bắt buộc để phát triển nền sản xuất xã hội. Vì vậy, Nghị quyết hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã khẳng định “sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỉ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [30, tr.45].

Như vậy, có thể thấy rằng trong xã hội XHCN, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì vấn đề con người là vấn đề chủ chốt. Một trong những công tác hàng đầu để hình thành con người mới XHCN đó chính là đào tạo nghề cho người lao động.

1.3.2. Về mặt thực tiễn

1.3.2.1. Tạo việc làm

- Việc làm được hiểu là những hành động cụ thể, những công việc cụ thể được giao cho người lao động làm và được trả công để sinh sống. Trước đây, việc làm phải gắn với một nghề nào đó hoàn chỉnh, gắn với quan niệm: "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" nghĩa là giỏi một nghề đủ làm cho cả một đời vinh hiển. Nay khái niệm việc làm có những thay đổi theo hướng linh hoạt và rộng rãi hơn: Việc làm nhiều khi chỉ gắn với một công việc, một phần công việc hoặc một số kĩ năng lao động của một nghề nào đó,... miễn là qua hoạt động cụ

thể, người lao động có thể hoàn thành nhiệm vụ và kiếm tiền để đảm bảo cuộc sống. Xu thế mới đa nghề hoặc giỏi một nghề biết nhiều nghề đang được nhiều người lao động phát huy, trên thực tế đã giúp cho việc tìm kiếm công ăn việc làm của nhiều người được dễ dàng hơn, giúp họ dễ dàng thích nghi với việc di chuyển nghề nghiệp khi thị trường lao động có sự thay đổi. Nghề và việc làm có mối quan hệ mật thiết với nhau: giỏi nghề đồng nghĩa với dễ tìm việc làm, người giỏi nghề không những đem lại thu nhập cao cho bản thân mà còn được xã hội tôn vinh, ca ngợi; việc làm ngoài việc kiếm sống còn đem lại phẩm chất, nhân cách cho con người.

Để có thể đề ra được một chính sách giải quyết việc làm đúng đắn trước hết phải làm rõ khái niệm về việc làm. Khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới, nhiều nhà kinh tế học đã nêu lên quan điểm về khái niệm việc làm. Tuy nhiên, đang có một số quan điểm khác nhau:

Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.

- Quan điểm xem xét việc làm như một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội.

- Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dôi dư, việc làm không đầy đủ. Ngày nay, người lao động có quyền làm việc cho bất cứ người sử dụng lao động nào mà pháp luật không ngăn cấm. Điều 13, Chương II, Bộ Luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan niệm rằng: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm" [2].

1.3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động

- Khái niệm: Chuyển dịch cơ cấu lao động có thể hiểu là sự di chuyển của lao động từ ngành này qua ngành khác, từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác và từ vùng này sang vùng khác. Từ đó, tạo ra sự thay đổi về quy mô lao động giữa các ngành, vùng, thành phần kinh tế.

- Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế.

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng kinh tế.

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo độ tuổi lao động.

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động theo chất lượng lao động.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động

+ Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đây là điều kiện tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế càng mạnh mẽ thì kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng càng nhanh. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm xuất hiện cân đối mới về nhu cầu lao động về cả số lượng lẫn chất lượng lao động. Quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá sẽ làm xuất hiện các ngành mới trong cơ cấu ngành kinh tế của vùng. Cùng với việc mở rộng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ sẽ thu hút thêm lao động nhất là lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Điều này, làm cho cơ cấu lao động có sự chuyển dịch từ nền kinh tế này sang ngành kinh tế khác và có sự phân công lại lao động theo lãnh thổ.

+ Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước

Khi nước ta còn ở trong thời kì bao cấp nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể, thì lao động tập trung chủ yếu ở các thành phần kinh tế này. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì lao động sẽ chuyển một phần từ các thành phần kinh tế nhà nước và tập thể sang các thành phần kinh tế khác.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/07/2023