Một Số Khái Niệm Cơ Bản Của Đề Tài 11239

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC

Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC


1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

Quản lý đào tạo là vấn đề then chốt để dẫn tới thành công trong bất cứ môi trường giáo dục nào từ trước đến nay. Với quan điểm “Việc học không bao giờ là muộn” (Ngạn ngữ) hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học" (Đác-uyn) thì Đào tạo hệ VLVH là loại hình đào tạo phù hợp với nhiều Quốc Gia trên Thế giới.

Quan niệm học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri thức.

Xung quanh vấn đề đào tạo hệ VLVH, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn, gắn với những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội và giáo dục. Bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri thức chúng tôi nghiên cứu về đào tạo theo hướng PTNL người học - một hướng đi mới trong giáo dục mà rất nhiều các Quốc gia đã và đang vận dụng. Đây có thể coi là những tư liệu tham khảo hữu ích để chúng tôi vận dụng vào trong luận văn.

1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài

Nhiều quốc gia trên thế giới đã sớm coi trọng và nghiên cứu vai trò của giáo dục và đào tạo, bước đầu và đạt được nhiều thành tựu to lớn như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu; cần kết hợp hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức Phương Tây hiện đại”; hay cường quốc Mỹ cũng luôn chú trọng đến việc “Tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài”; một người bạn lớn của Việt Nam là Liên Xô trước đây cũng đã khẳng định “Chính sách về con người là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của mọi chính sách kinh tế - xã hội”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra thông điệp cho giáo dục khi chúng ta bước vào thế kỷ XXI, đó là:“Nền giáo dục của xã hội học tập, học tập suốt đời”. Nguyên lý “Giáo dục cho mọi người - mọi người cho giáo dục” cũng như nguyên lý “Học suốt đời” đang thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động Giáo dục - Đào tạo ở nước ta nói riêng và nhiều nước trên thế giới nói chung theo 04 tiêu chí giáo dục được UNESCO khuyến cáo:“Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người”

Quan điểm của Mác - Ăng ghen, đó là: “Giáo dục bình đẳng” và sau này là tư tưởng Hồ Chí Minh: “Mọi người ai cũng được học hành”. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng các hình thức chính quy và không chính quy (trong đó có cả hệ vừa làm - vừa học), thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập.

Quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học theo hướng phát triển năng lực người học ở trường Đại học Hùng Vương - 3

Trong đổi mới giáo dục, ở hầu khắp các nước trên thế giới người ta rất quan tâm đến bồi dưỡng phát triển năng lực, phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua môn học. Tiến sĩ Raia Roy Singh, nhà giáo dục nổi tiếng Ấn Độ, chuyên gia giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương khẳng định: “Để đáp ứng được những đòi hỏi mới đặt ra do sự bùng nổ kiến thức và sáng tạo ra kiến thức mới, cần thiết phải phát triển năng lực tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo...Các năng lực này có thể quy gọn là “năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.”

Một số thay đổi cơ bản trong giáo dục thế kỷ 21:

- Sự thay đổi của mục tiêu: Từ chủ yếu trang bị kiến thức và kỹ năng sang hình thành năng lực, phẩm chất cho người học.

- Xu hướng giáo dục toàn diện được đề cao. Nhiều môn học mới thiết thực với cuộc sống được đưa vào chương trình đào tạo.

- Sự thay đổi về phương tiện, phương pháp dạy học: internet trở thành một phương tiện dạy học quan trọng, phương pháp thuyết giảng dần mất đi, thay vào đó là hệ thống các phương pháp linh hoạt và đa dạng phù hợp với từng đối tượng và cấp học.

Như vậy, có thể thấy rất rõ, ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển (nhất là giáo dục đại học) luôn đặc biệt quan tâm tới vấn đề bình đẳng trong giáo dục, để học tập không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lựa chọn của mỗi cá nhân. Theo chúng tôi: Với sự bùng nổ của kiến thức thì phát triển hệ đào tạo VLVH là một xu thế tất yếu. Để mọi người ai cũng được học hành, để mỗi Quốc gia trở thành một xã hội học tập.

1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước

Bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, khi Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế thìnền giáodục Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức: đòi hỏi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Để làm được điều đó người lao động cần phải có ý thức học tập suốt đời, VLVH để cập nhật kiến thức thường xuyên thích ứng với công việc trước đòi hỏi của sự phát triển khoa học công nghệ.

Trong nghị quyết Hội nghị TW 8 khóa XI của Đảng về Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo. Có những điểm cần chú ý:

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.

- Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý các cấp; đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch.

Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi năm 2009) đã ghi rõ: “Các chương trình xóa mù chữ và tiếp tục sau khi biết chữ; đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kỳ, bồi dưỡng nâng cao trình độ cập nhật kiến thức, kỹ năng; các chương trình để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức vừa làm vừa học...”[22;10].

Trong những năm gần đây, đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề chất lượng đào tạo bậc cao đẳng, đại học, có nhiều bài báo viết về vấn đề này. Tác giả Phạm Phương Tâm (Đại học Cần Thơ) có bài viết: “Mở rộng liên kết, đa dạng loại hình đào tạo không chính quy đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội” đã nêu sự cấp thiết của việc đào tạo hệ VLVH và đề cập đến vấn đề đổi mới, tổ chức đào tạo hiệu quả.

Tác giả Trần Chí Đáo với bài viết: “Các hướng đổi mới Quản lý đại học Việt Nam trước bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay”, đã đề cập tới vài dự báo về thế kỷ XXI.

Tác giả Trần Hồng Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bài: “Những hướng tiếp cận và giải pháp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hướng vào thế kỷ XXI”, bài “Nâng cao chất lượng đào tạo đại học để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đề cập những xu hướng phát triển giáo dục thế giới thế kỷ XXI, thuận lợi và thách thức đối với giáo dục Việt Nam, hướng tiếp cận và một số giải pháp đổi mới giáo dục nước nhà trước thế kỷ mới.

Trong bài nghiên cứu ”Nhu cầu và giải pháp cho giáo dục không chính quy”, tác giả Trịnh Minh Tứ và Lê Hải Yến đã nêu: “Nhu cầu giáo dục không chính quy ở tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển là rất lớn, và không phải ai cũng có điều kiện để học tập chính quy trên ghế nhà trường, con số này chỉ chiếm 1-2% dân số…”[32;4].

Hiện nay, các hình thức đào tạo hệ VLVH rất đa dạng góp phần nâng cao dân trí và đáp ứng phần nào nhu cầu học tập của người lao động và của xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ý kiến tranh luận về chất lượng đào tạo của hình thức này. Hơn nữa, việc nghiên cứu quản lý đào tạo hệ VLVH theo hướng phát triển năng lực

người học chưa được chú trọng đúng mức. Những công trình nghiên cứu về quản lý đào tạo hệ VLVH mới chỉ đề cập đến những khía cạnh khác nhau của quản lý đào tạo hệ VLVH, chưa có nhiều công trình tập trung nghiên cứu quản lý đào tạo hệ VLVH theo hướng phát triển năng lực người học một cách toàn diện. Do đó vấn đề này vẫn cần được nghiên cứu.

Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả xin đề cập vấn đề quản lý đào tạo hệ VLVH theo hướng phát triển năng lực người học tại trường Đại học Hùng Vương. Đây là một vấn đề đến nay còn ít tác giả nghiên cứu. Từ những kết quả nghiên cứu về công tác quản lý đào tạo trong những năm qua, chúng ta có thể phân tích sâu hơn những thành tựu và những mặt còn tồn tại trong công tác quản lý đào tạo nhằm đưa ra những biện pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo hệ VLVH theo hướng phát triển năng lực người học tại trường Đại học Hùng Vương.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Khái niệm quản lý

Trong bất kỳ một xã hội, một quốc gia nào cũng cần có sự quản lý. Chính vì vậy khái niệm quản lý đã xuất hiện từ rất lâu. Trong cuộc sống người ta hiểu quản lý theo nhiều cách, do đó cũng có nhiều cách định nghĩa về quản lý khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt “Quản lý” là “trông nom, xếp đặt công việc trong một cơ quan, xí nghiệp” [31;542].

Thuật ngữ “Quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực tiễn. Nó gồm 2 quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế “phát triển”. Suy cho cùng thì bản chất của hoạt động QL là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể và đối tượng QL trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đã đề ra.

Các nhà Quản lý học cho rằng: “Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công và hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý…Phải có người đứng đầu”.

Hoạt động quản lý đã xuất hiện rất sớm cùng với sự hình thành các cộng đồng người. Từ xa xưa các nhà quản lý và các nhà tư tưởng đã thấy rõ vai trò của nhân tố con người trong hoạt động quản lý. Khái niệm về quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.

F.Taylor (1856 - 1915) là người đầu tiên khai sinh ra khoa học quản lý và là ông tổ của trường phái “quản lý theo khoa học”, tiếp cận quản lý dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật đã cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”[12;25].

Henry Fayol (1886-1925) là người đầu tiên tiếp cận quản lý theo quy trình và là người có tầm ảnh hưởng to lớn trong lịch sử tư tưởng quản lý từ thời kỳ cận - hiện đại tới nay. Ông quan niệm: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”[12;53]. Các nhà nghiên cứu về quản lý và QLGD nước ta, các giáo sư, các nhà tư tưởng trong quá trình nghiên cứu của mình cũng đưa ra các định nghĩa, các khái niệm về quản lý như sau:

Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý là quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung” [2;5].

Theo tác giả Hoàng Chúng và Phạm Thanh Liêm: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ, động viên kích thích họ trong quá trình lao động”[10;3].

Tác giả Hà Sỹ Hồ định nghĩa: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ định) có tổ chức, có lựa chọn trong các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã chọn”[17;1].

Tác giả Nguyễn Văn Lê quan niệm: “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa học, là nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra”[21;2].

Theo chúng tôi quản lý là quá trình tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng quản lý, các nguyên tắc và các phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của mình. Có thể nói quản lý là sự tác động tương hỗ biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lý. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.

- Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hoá và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải thích các mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả.

- Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt, hoạt động này đòi hỏi vận dụng hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết. Người quản lý thông qua tri thức và kinh nghiệm áp dụng những kỹ năng cần thiết vào tổ chức con người và công việc.

1.2.2. Giáo dục và quản lý giáo dục

- Giáo dục

Triết lý phổ quát nhất của giáo dục và có lẽ được mọi người thừa nhận nhất đó là: “Giáo dục phục vụ mọi người, phục vụ đời sống, vì hạnh phúc con người và sự phồn vinh xã hội”.

Theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.

- Quản lý giáo dục

Quản lý giáo dục là một bộ phận của hệ thống quản lý xã hội. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “QLGD hay còn được hiểu là quản lý nhà trường (QLNT) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. “QLNT, QLGD là tổ chức hoạt động dạy học thực hiện được các tính chất của nhà trường Việt Nam XHCN…cần cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” [15;46].

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD nói chung và QLTH nói riêng là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch kết hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà mục tiêu hội tụ là QTDH - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [26;24].

Từ những quan điểm có thể đi đến một cách hiểu cơ bản: QLGD là loại hình quản lý đa dạng và phức tạp do hệ thống giáo dục có mục tiêu nhất quán cao, mang tính chất thể chế hóa, trong phạm vi rộng. Chính vì vậy hoạt động QLGD cần huy động được lực lượng toàn thể xã hội tham gia, nhằm đáp ứng các mục tiêu văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước. Hiểu một cách đầy đủ QLGD là sự tác động một cách có kế hoạch, có chủ định của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục, làm cho hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng trên cơ sở vận dụng các quy luật của quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách của đối tượng giáo dục, hướng đến việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục đã được xác định.

1.2.3. Đào tạo và quản lý đào tạo

- Đào tạo

Theo Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản KHXH: đào tạo được hiểu là “gây dựng bồi dưỡng cho thành” [31;203]. Nhưng trong giáo dục học, đào tạo là lĩnh vực trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để hình thành chuyên môn cho người lao động nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường gắn với giáo dục đạo đức nhân cách.

Đào tạo về cơ bản được xem như một quá trình nên tính biện chứng của việc thực hiện đào tạo, điều chỉnh đào tạo và mục tiêu mới được đảm bảo trong quá trình thay đổi của môi trường. Vì là quá trình, nó có: trạng thái ban đầu gọi là đầu vào, sự diễn biến chủ yếu ở đây là hoạt động đào tạo và trạng thái kết thúc gọi là đầu ra. Trong luận văn này chúng tôi dựa vào quá trình đào tạo để phân tích vấn đề được nghiên cứu.

- Quản lý đào tạo

QLĐT là quá trình mà chủ thể quản lý xây dựng mục tiêu, kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá các kết quả của hoạt động đào tạo đã đạt được so với yêu cầu và chuẩn mực đề ra trong chương trình Giáo dục và nhiệm vụ năm học về chất lượng phát triển nhân cách toàn diện của người học.

+ Quản lý mục tiêu đào tạo

Quản lý mục tiêu đào tạo là quản lý những gì sinh viên phải đạt được về đạo đức, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo sau một quá trình học tập. Điều này mang ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình đào tạo, giúp giảng viên định hướng mục tiêu giảng dạy, đánh giá đúng đắn về kết quả học tập của sinh viên và kết quả giảng dạy của bản thân nhằm giúp cho sinh viên xác định đúng mục tiêu học tập, đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội.

+ Quản lý nội dung giảng dạy

Quản lý nội dung giảng dạy cần phải xác định nội dung giảng dạy có phù hợp với mục tiêu đào tạo không. Nội dung của đào tạo nghề là những yêu cầu đặt ra để mang lại cho người học có được những kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết. Nội dung giảng dạy phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản là hiện đại và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Bên cạnh những nội dung cơ bản về chuyên ngành đào tạo, cần giáo dục cho sinh viên truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền thống yêu nước, lòng nhân ái, tình đoàn kết…

+ Xác định phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo: Tại Điều 34, khoản 1 của Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi năm 2009) có ghi: “Phương pháp giáo dục phải kết hợp rèn luyện kỹ năng thực hành với giảng dạy lý thuyết để giúp người học có khả năng hành nghề và phát triển nghề nghiệp theo yêu cầu của từng công việc” [22;6]. Xác định phương pháp và hình thức đào tạo là việc thiết kế các quy trình dạy học sao cho phù hợp với đầu vào, đầu ra, nội dung và điều kiện thực tế nhằm thực hiện một cách tối ưu mục đích và nhiệm vụ dạy học.

+ Quản lý cán bộ giảng viên: Quản lý cán bộ giảng viên bao gồm quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên và quản lý hoạt động chuyên môn của cán bộ quản lý, chuyên viên, nhân viên…

+ Quản lý học tập của sinh viên: Quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập, nghiên cứu, rèn luyện của sinh viên.

+ Quản lý môi trường giáo dục, trang thiết bị giảng dạy: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động học tập quyết định một phần quan trọng trong điều kiện học tập, chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của nhà trường, có tác dụng hỗ trợ hoạt động học tập của sinh viên đạt hiệu quả và chất lượng cao hơn. Người quản lý luôn đảm bảo môi trường học tập thân thiện, lành mạnh, khuyến khích phong trào thi đua học tập. Quan tâm đến cơ sở vật chất để hỗ trợ công tác giảng dạy và học tập.

+ Quản lý chất lượng đào tạo: Thường xuyên theo dõi, đánh giá, xử lý các sai lệch để kịp thời điều chỉnh nhằm làm cho công tác giáo dục, đào tạo và nhà trường phát triển liên tục.

+ Kiểm tra đánh giá: Trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng nhằm xác định mức độ hiểu biết về kiến thức, kỹ năng và khả năng vận dụng của người học. Đối với sinh viên, nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng. Tạo điều kiện cho người dạy nắm vững hơn tình hình học tập của sinh viên, cung cấp thông tin phản hồi có tác dụng giúp cho giảng viên giảng dạy tốt hơn.

Theo chúng tôi trong quá trình quản lý công tác đào tạo, các yếu tố trên luôn luôn vận động và tác động qua lại lẫn nhau làm nảy sinh những tình huống quản lý. Chất lượng giáo dục - đào tạo chịu tác động bởi nhiều yếu tố về mặt khách quan và mặt chủ quan. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng quá trình đào tạo nghề trong một nhà trường. Do vậy, nhà quản lý phải thường xuyên theo dõi, đánh giá, xử lý các sai lệch để kịp thời điều chỉnh nhằm làm cho công tác giáo dục, đào tạo và nhà trường phát triển liên tục. Nếu hạn chế được tối đa các yếu tố bất lợi, tiêu cực và phát huy được những yếu tố tích cực, có lợi thì quá trình đào tạo trong nhà trường sẽ phát huy tối đa hiệu quả góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo.

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí