Hoàn Thiện Các Công Cụ Pháp Lý Theo Thông Lệ Quốc Tế



toán trong các báo cáo tài chính qua các năm gây khó khăn cho việc tổng hợp và có nhiều sai biệt so với chuẩn quốc tế…

3.2.1.3. Áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro

Thanh tra trên cơ sở rủi ro (Risk-Based Supervision – RBS) là việc đánh giá ngân hàng trên các mặt: Mức độ và xu hướng của rủi ro; hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro và khả năng tài chính của ngân hàng để chống đỡ các rủi ro có thể xảy ra.

Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro và chấp nhận rủi ro. Thanh tra trên cơ sở rủi ro là phương pháp thanh tra tiên tiến, thể hiện được nhiều ưu điểm hỗ trợ cơ quan thanh tra ngân hàng đánh giá tốt hơn về rủi ro thông qua:

- Tách bạch mức độ rủi ro và hệ thống quản trị rủi ro;

- Tập trung tốt hơn vào việc phát hiện sớm rủi ro mới xuất hiện tại từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống;

- Sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn thông qua việc tập trung vào các lĩnh vực chứa đựng rủi ro cao, thanh tra tại chỗ sẽ mất ít thời gian hơn tại ngân hàng.

Do đó, khi thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, thanh tra NHNN có khả năng đánh giá tốt hơn năng lực quản lý của ngân hàng, tính chất phức tạp của hoạt động kinh doanh và những rủi ro mà ngân hàng gặp phải; tập trung tối đa nguồn lực để giải quyết các lĩnh vực có rủi ro cao nhất, làm lành mạnh hoá hoạt động của ngân hàng, góp phần ổn định hệ thống ngân hàng.

Quy trình thanh tra trên cơ sở rủi ro:


Trong đó Bước 1 2 6 Liên quan đến việc lập kế hoạch giành ưu tiên giám sát 1



Trong đó:

- Bước 1, 2, 6: Liên quan đến việc lập kế hoạch, giành ưu tiên giám sát và thanh tra đối với một ngân hàng; những bước này thường được hoàn thành tại NHNN bởi bộ phận giám sát từ xa, bộ phận phân tích, Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và bởi thanh tra viên tại chỗ được giao nhiệm vụ giám sát và báo cáo về ngân hàng giữa các kỳ thanh tra.

- Bước 3, 4 và 5: Liên quan đến việc xác định, thực hiện, báo cáo và ra kết luận thanh tra; những bước này được hoàn thiện bởi đoàn thanh tra tại chỗ với kết luận và các biện pháp sửa chữa do Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng đưa ra.

Bước 1: Hiểu biết về ngân hàng và đánh giá rủi ro của ngân hàng

Do hoạt động thanh tra trên cơ sở rủi ro nhằm mục đích kiểm soát rủi ro liên tục, việc hiểu biết về mỗi ngân hàng là điểm bắt đầu tốt nhất. Vì vậy, nên có quy trình phù hợp để phát triển và duy trì việc hiểu biết toàn diện về tình hình rủi ro của mỗi ngân hàng.

Bước 2: Lập kế hoạch thanh tra đối với mỗi ngân hàng

Trên cơ sở bước 1, Cơ quan thanh tra, giám sát lập kế hoạch thanh tra đối với mỗi ngân hàng và đặt ra thứ tự ưu tiên cho các nhiệm vụ thanh tra cần thực hiện. Rủi ro đôi khi là lớn đối với một ngân hàng nhưng lại không lớn đối với hệ thống ngân hàng. Do đó, người lãnh đạo phải cân đối rủi ro của các ngân hàng nhỏ (đặc biệt nếu rủi ro đó liên quan đến khả năng tiếp tục tồn tại của ngân hàng đó) so với rủi ro lớn trong hệ thống ngân hàng.

Bước 3: Thành lập đoàn thanh tra và công tác chuẩn bị

Sau khi lập xong kế hoạch, Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ ra quyết định thành lập một đoàn thanh tra để tiến hành thanh tra tại chỗ. Trưởng đoàn lập bản phạm vi công việc xác định các mục tiêu chi tiết dự kiến đạt được liên quan đến những công việc cần làm trong quá trình thanh tra tại chỗ. Trưởng đoàn cũng dự thảo một thư yêu cầu gửi đến ngân hàng, yêu cầu ngân hàng chuẩn bị các báo cáo và tài liệu cụ thể. Một số nội dung trong thư yêu cầu này có



thể được gửi trước cho ngân hàng, một số nội dung khác được thu thập và lưu giữ cho đến khi đoàn thanh tra đến làm việc tại TCTD.

Bước 4:Tiến hành hoạt động thanh tra tại chỗ

Các thành viên của đoàn thanh tra tiến hành đánh giá từng lĩnh vực rủi ro và bộ phận chức năng mà họ được phân công đồng thời cần phải chú trọng vào các lĩnh vực có rủi ro cao nhất của ngân hàng và cách thức mà ngân hàng quản lý những rủi ro này. Các thành viên này lập hồ sơ thanh tra để ghi chép lại các hoạt động và các phát hiện trong quá trình tiến hành thanh tra.

Bước 5: Kết luận và các biện pháp sửa chữa

Dựa trên báo cáo thanh tra tại ngân hàng cùng các tài liệu liên quan và qua thảo luận với các đơn vị chức năng của NHNN, lãnh đạo ngân hàng được thanh tra, Người ra quyết định thanh tra ban hành kết luận thanh tra và quyết định việc cần thiết phải áp dụng hình thức xử lý, biện pháp chỉnh sửa tương ứng với mức độ sai phạm của ngân hàng.

Bước 6: Giám sát ngân hàng sau thanh tra.

Sau thanh tra tại chỗ, định kỳ các ngân hàng phải cung cấp cho Cơ quan thanh tra, giám sát những thông tin cần thiết để đánh giá mức độ đầy đủ trong việc thực hiện của ngân hàng. Khi ngân hàng tuân thủ đầy đủ tất cả các yêu cầu theo kết luận thanh tra, Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ quyết định việc chuyển sang giám sát thường xuyên đối với ngân hàng. Trường hợp ngân hàng không thực hiện đúng tiến độ chấn chỉnh sau thanh tra hoặc tiếp tục có biểu hiện kém an toàn, Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ quyết định các cấp độ xử lý tương xứng.

Trong các bước trên, việc đánh giá rủi ro của một ngân hàng là một trong những bước quan trọng nhất. Để đánh giá rủi ro của một ngân hàng, cần xây dựng bảng đánh giá rủi ro. Đây là bảng tổng hợp tất cả các đánh giá về: hoạt động quan trọng, rủi ro nội tại, chất lượng quản trị rủi ro, rủi ro ròng, tính quan trọng, rủi ro ròng tổng thể, lợi nhuận, vốn, khả năng thanh khoản và rủi ro hợp nhất của một ngân hàng [51].


Bảng tổng

hợp


Rủi ro nội tại


Chất lượng quản trị rủi ro

Rủi ro

ròng

Chiều hướng

rủi ro

Tầm quan

trọng


Hoạt động quan trọng

Tín dụng

Thị trường

Bảo hiểm

Hoạt động

Pháp lý

Chiến lược

Quản trị hoạt động

Tài chính

Tuân thủ

Tính toán bảo hiểm

Quản trị rủi ro

Kiểm toán nội bộ

Ban điều hành cấp

cao

Hội đồng quản trị




Hoạt

động 1


















Hoạt

động 2


















…..


















Đánh giá tổng

thể




















Đánh giá

Chiều hướng

Khoảng thời

gian

Lợi nhuận




Vốn




Tính thanh khoản




Rủi ro hợp nhất




Điểm đánh giá can thiệp


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

- Các hoạt động quan trọng là nền tảng cơ bản cho hoạt động kinh doanh của một ngân hàng và có vai trò đáp ứng mục tiêu kinh doanh tổng thể của ngân hàng. Để nhận biết các hoạt động quan trọng, có thể sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau bao gồm: Cơ cấu tổ chức, kế hoạch kinh doanh, phân bổ vốn, báo cáo nội bộ,… Việc lựa chọn hoạt động quan trọng có thể xuất phát từ định lượng như phần trăm đóng góp của hoạt động đó đến tổng tài sản, doanh thu, thu nhập,… hoặc định tính như tầm quan trọng của hoạt động đó, kế hoạch tăng trưởng,…

- Rủi ro nội tại là khả năng xảy ra các khoản lỗ hữu hình (khoản lỗ có thể làm suy yếu mức độ đủ vốn của ngân hàng). Mỗi hoạt động quan trọng sẽ được đánh giá với các rủi ro nội tại mà nó gặp phải. Hiện nay, có 6 loại rủi ro để đánh giá về rủi ro



nội tại gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro bảo hiểm, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro chiến lược. Các rủi ro này được đánh giá theo các mức: thấp, trung bình, trên mức trung bình và cao.

- Chất lượng quản trị rủi ro được đánh giá ở hai mức độ: quản trị hoạt động và chức năng giám sát. Quản trị hoạt động chịu trách nhiệm kiểm soát quản lý hoạt động quan trọng hàng ngày. Chức năng giám sát chịu trách nhiệm cung cấp sự giám sát độc lập về quản lý hoạt động, với 7 mục: tài chính, tuân thủ, tính toán bảo hiểm, quản trị rủi ro, kiểm toán nội bộ, ban điều hành cấp cao và hội đồng quản trị. Các mục này được đánh giá theo mức: tốt, chấp nhận được, cần phải cải thiện và kém.

- Rủi ro ròng được đánh giá dựa trên tất cả các điểm đánh giá rủi ro nội tại và chất lượng quản trị rủi ro ứng với từng hoạt động quan trọng. Có bốn mức: thấp, trung bình, trên mức trung bình và cao.

- Chiều hướng rủi ro ròng được đánh giá đồng thời với rủi ro ròng, theo ba mức độ: giảm, ổn định hoặc tăng.

- Tầm quan trọng của một hoạt động là mức đóng góp của hoạt động đó đến rủi ro ròng tổng thể của ngân hàng. Tầm quan trọng có các mức: thấp, trung bình và cao.

- Đánh giá rủi ro tổng thể được tính dựa trên rủi ro ròng của từng hoạt động kết hợp với xếp loại tầm quan trọng. Rủi ro tổng thể là sự đánh giá các tác động bất lợi tiềm tàng mà các hoạt động quan trọng gây ra đối với thu nhập hoặc mức đủ vốn của ngân hàng. Rủi ro này được đánh giá ở các mức: thấp, trung bình, trên mức trung bình và cao; chiều hướng đánh giá: giảm, ổn định hoặc tăng.

- Lợi nhuận được đánh giá dựa trên số lượng, chất lượng và mức độ bền vững. Đây là một trong những nguồn bổ sung vốn chủ sở hữu dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Lợi nhuận được xếp loại theo các mức: tốt, chấp nhận được, cần phải cải thiện và kém; chiều hướng đánh giá: cải thiện, ổn định hoặc suy giảm.

- Vốn được đánh giá dựa trên mức độ vốn và chất lượng của vốn theo các mức: tốt, chấp nhận được, cần phải cải thiện và kém; chiều hướng đánh giá: cải thiện, ổn định hoặc suy giảm.



- Khả năng thanh khoản được đánh giá dựa trên mức độ rủi ro thanh khoản và chất lượng quản lý của nó. Các mức đánh giá: tốt, chấp nhận được, cần phải cải thiện và kém; chiều hướng đánh giá: cải thiện, ổn định hoặc suy giảm.

- Rủi ro hợp nhất là việc đánh giá rủi ro của ngân hàng sao khi xem xét tác động của lợi nhuận, vốn và thanh khoản đối với rủi ro ròng tổng thể. Rủi ro này được đánh giá ở các mức: thấp, trung bình, trên mức trung bình và cao; chiều hướng đánh giá: giảm, ổn định hoặc tăng.

3.2.1.4. Hoàn thiện các công cụ pháp lý theo thông lệ quốc tế

Tại các nền kinh tế nói chung, đặc biệt các nền kinh tế mới nổi, ngành ngân hàng giữ vai trò chủ chốt trong hệ thống tài chính và nền kinh tế. Việc áp dụng tiêu chuẩn Basel 2 vào hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngành ngân hàng và do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế của các quốc gia. Áp dụng các tiêu chuẩn quản trị rủi ro mới theo Basel 2 là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng hiện nay. Basel 2 là một cấp độ mới, cao hơn đối với các ngân hàng Việt Nam, theo tiêu chuẩn của hiệp ước vốn mà Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng thiết lập. Tuy không bắt buộc và có sự khác biệt nhất định trong việc áp dụng ở mỗi quốc gia, song tinh thần chung là khắt khe, chặt chẽ hơn trong giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng.

Việc triển khai các chuẩn mực quốc tế tại Việt Nam luôn là quá trình tốn rất nhiều thời gian và kinh phí. Không chỉ dừng lại ở tình trạng bất cập về khuôn khổ pháp lý, nguồn nhân lực, mà khả năng tài chính của các ngân hàng còn hạn hẹp. Trong khi đó, việc áp dụng Basel 2 đòi hỏi một hệ thống quản trị điều hành chuyên nghiệp, hiệu quả dựa trên những cơ sở dữ liệu đầy đủ, rõ ràng và chi tiết. Lộ trình chuẩn hóa các nguyên tắc theo Hiệp ước Basel 2 không những là nền tảng, là gốc rễ, mà còn là nhu cầu cần thiết đối với từng tổ chức ngân hàng. Mặt khác, chuẩn mực vốn Basel 3 được đưa ra trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn cầu trong những năm 2007 - 2010 để bổ sung cho Basel 2 khắc phục những hạn chế, chủ yếu về quản lý thanh khoản, yêu cầu vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế, giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn,… với khuyến nghị lộ trình thực hiện giai



đoạn 2015 - 2018 tùy theo điều kiện của từng quốc gia. Như vậy, Basel 3 chỉ là phần bổ sung cho Basel 2 nên NHNN đã nghiên cứu áp dụng có chọn lọc một số nội dung của Basel 3 phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện Basel 2, ví dụ: quy định về vốn tự có, tỷ lệ thanh khoản, quy định điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn theo từng thời kỳ. Đối với Việt Nam, trước hết là hướng tới thực hiện các quy định của Basel 2:

- Khi bắt đầu hướng dẫn các nguyên tắc của Ủy ban Basel 2, NHNN ban hành các quy định hướng dẫn về việc thực hiện phương pháp tính toán vốn cho rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động theo một số phương pháp đánh giá và phân tích rủi ro tiêu chuẩn đối với hoạt động nghiệp vụ rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Tới năm 2018, NHNN sẽ áp dụng phương pháp tiếp cận nội bộ cho phép các NHTM được quyền tự quyết định mức vốn cần phải nắm giữ, tùy theo hồ sơ rủi ro của mình. Ngân hàng nào kinh doanh với nhiều rủi ro thì phải nắm giữ nhiều vốn và ngược lại. Tuy nhiên, các ngân hàng không bắt buộc phải áp dụng một phương pháp nhất định nào trong số những phương pháp được đề ra theo trụ cột 1, mà khuyến nghị các ngân hàng sẽ áp dụng phương pháp phù hợp nhất với trạng thái rủi ro của mình.

Đồng thời, NHNN thanh tra, giám sát tại chỗ các ngân hàng để đánh giá mức độ sẵn sàng của các ngân hàng đối với việc áp dụng phương pháp đo lường vốn cho rủi ro tín dụng phức tạp hơn theo Basel 2.

- NHNN quy định về công bố thông tin tỷ lệ sở hữu cổ phần. Hiện nay, NHNN đã ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN bổ sung khái niệm người có liên quan của cá nhân, tổ chức làm căn cứ duy trì, tính toán các giới hạn cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, Thông tư số 52/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán: cá nhân, tổ chức và nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của ngân hàng phải báo cáo về tỷ lệ sở hữu cho các cơ quan quản lý. Do đó, để phát hiện được các mối quan hệ sở hữu chéo, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin bao gồm cả



nhóm đối tượng người có liên quan đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ngân hàng mà ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin. Các đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu ngân hàng cụ thể là: Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1% trở lên; người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1%. Việc quy định này sẽ giúp cho việc xác định quan hệ sở hữu chéo dễ dàng hơn [14].

- NHNN đảm bảo quy định về kế toán và tính an toàn của hệ thống cần được liên tục nâng cao tính minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Để loại trừ tính nhiễu của sở hữu chéo trong vốn tự có, khoản đầu tư của TCTD này vào TCTD khác phải được xác định rõ và loại trừ khỏi vốn cấp 1 của tổ chức được góp vốn khi tính hệ số an toàn vốn (CAR) của tổ chức này, tránh tình trạng vốn chảy lòng vòng trong hệ thống dẫn tới việc tăng vốn không thực chất. Ngoài ra, các quy định về phòng chống rửa tiền cũng phải được thực thi một cách nghiêm túc, các cổ đông đi vay tiền hoặc các nguồn tiền để góp vốn thành lập ngân hàng không minh bạch thì phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh [44].

NHNN cần tăng cường thanh tra tại chỗ, sử dụng tốt các kết quả của kiểm toán độc lập để kiểm tra phân loại nợ và tài sản của ngân hàng. Khi đã phân loại nợ hợp lý thì ngân hàng mới có cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, mặt khác tạo điều kiện để ngân hàng không có điều kiện hạch toán vốn “ảo”.

3.2.1.5. Tăng vốn chủ sở hữu, đảm bảo cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý hơn đối với các NHTM

Một trong những yếu kém của NHTM Việt Nam là quy mô vốn tự có thấp so với tổng tài sản làm cho ngân hàng khó có thể khống chế những diễn biến xấu, phức tạp trên thị trường. Do đó, để góp phần tăng sự an toàn cho hoạt động kinh doanh và nâng cao vị thế, khả năng cạnh tranh của ngân hàng, yêu cầu tăng quy mô và chất lượng vốn chủ sở hữu càng trở nên cấp thiết. Các giải pháp cần thực hiện là:

- Tăng vốn chủ sở hữu của NHTM nhà nước đi đôi với nâng cao vai trò của người đại diện phần vốn nhà nước trong các ngân hàng này. Đối với các NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa cần tính đến việc giảm tỷ trọng sở hữu của nhà nước bằng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023