Giải Pháp Hoàn Thiện Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam Giai Đoạn 2016-2020



an toàn vốn và phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn mới 2016-2020.

Định hướng quản lý của NHNN đối với vốn chủ sở hữu của các NHTM:

Phải thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng một cách tích cực, đặc biệt là thực hiện các nguyên tắc của Ủy ban Basel 2 đối với tất cả các NHTM.

Phải chuẩn hóa các hoạt động ngân hàng theo thông lệ quốc tế, bao gồm các quản trị, hoạt động, tài chính.

Quản lý của NHNN đối với hoạt động về vốn chủ sở hữu của các NHTM phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường, giảm các biện pháp hành chính và can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động của các NHTM.

Quản lý của NHNN đối với hoạt động về vốn chủ sở hữu của các NHTM phải gắn liền với quá trình tái cơ cấu các NHTM theo chiến lược của NHNN. Tạo điều kiện thu hút sự tham gia của các đối tác nước ngoài, các nhà đầu tư chiến lược vào quản lý điều hành hoạt động của ngân hàng, từ đó hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lực quản lý và quản trị điều hành.

Mục tiêu tái cấu trúc và quản lý vốn chủ sở hữu của NHTM là:

Tăng quy mô vốn chủ sở hữu, tăng vốn chủ cốt lõi (vốn cổ phần phổ thông, lợi nhuận giữ lại).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

Xử lý nợ xấu, đảm bảo vốn chủ sở hữu là giá trị vốn của ngân hàng, không có vốn “ảo”.

Tăng tỷ lệ an toàn vốn.

Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 19

Tạo ra một cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý, giảm sở hữu chéo, sở hữu chi phối, tăng tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư bên ngoài ngân hàng.

Tăng năng lực quản trị của ngân hàng.



3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020‌

3.2.1. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước

3.2.1.1. Tăng tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Hiện nay trên thế giới có 3 mô hình tổ chức của NHTW: NHTW độc lập với Chính phủ (như Mỹ, Đức…), trực thuộc Chính phủ (như Pháp, Anh, Trung Quốc, Việt Nam…) và trực thuộc một Bộ (ví dụ trực thuộc Bộ Tài chính như Thái Lan, Indonesia.., sau đó các nước này từ bỏ mô hình này vì không hiệu quả). Với mỗi mô hình tổ chức của NHTW có những ưu nhược điểm riêng và điều kiện phát triển của từng quốc gia. Song xét về tính hiệu quả trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ thì mô hình độc lập của NHTW là cao hơn cả. Mô hình này phù hợp tốt nhất với vai trò NHTW là người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng khi cần thiết, đảm bảo tối cao cho sự ổn định của đồng tiền quốc gia trước các cú sốc của nền kinh tế từ bên trong và bên ngoài. Từ kinh nghiệm xử lý khủng hoảng tài chính và tiền tệ trên thế giới, mô hình này cho thấy một cơ chế xử lý khủng hoảng linh hoạt và khả thi nhất. Ngoài ra, mô hình này tăng tính độc lập của NHTW trong tổ chức giám sát ngân hàng.

NHNN là cơ quan quản lý nhà nước đối với các NHTM. Theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ có trách nhiệm hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ. Mô hình này là phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam. Tuy nhiên, xét về xu hướng hoạt động ngân hàng trên thế giới, nhìn vào quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam và bối cảnh hội nhập kinh tế - tiền tệ ngày càng mạnh mẽ, với các cam kết quốc tế đa phương và song phương đem lại một hoạt động ngân hàng ngày càng “phẳng” giữa Việt Nam và khu vực cũng như trên thế giới, thì mô hình trực thuộc Chính phủ của NHNN sẽ tỏ ra ít có hiệu quả. Việc đem lại tính độc lập cho NHNN là điều tất yếu, song cần có lộ trình thận trọng và cụ thể về mặt pháp lý và tổ chức thực hiện, có thể là tầm nhìn 2030 khi hướng tới NHNN độc lập và hiện đại.



Sự độc lập của NHNN rất có lợi ích đối với quản lý, thanh tra giám sát các tổ chức tín dụng và NHTM nói chung và quản lý vốn chủ sở hữu của NHTM nói riêng. Khi đó, với tư cách là trung tâm thanh toán của toàn quốc gia, với công tác thống kê báo cáo hữu hiệu, quyền năng tối cao của NHNN được đề cao để đảm bảo ổn định đồng tiền quốc gia. NHNN có thể chủ động trong các mục tiêu, công cụ và phương pháp quản lý để có thể thực hiện lộ trình và chiến lược do mình đề ra.

3.2.1.2. Tăng cường hiệu lực giám sát tài chính của Ngân hàng Nhà nước

Hoạt động giám sát ngân hàng thực hiện các mục tiêu cơ bản là đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng; nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên thị trường tài chính và bảo vệ người gửi tiền. Để hoạt động giám sát ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả, đáp ứng các mục tiêu trên bên cạnh việc giám sát bằng chính sách pháp luật, NHNN cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả giám sát ngân hàng tại Việt Nam. Hiện nay, đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng của NHNN đang dựa vào sự so sánh thuần túy về mặt số học giữa kết quả giám sát với những chi phí đầu vào sử dụng trong quá trình thực hiện giám sát. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động giám sát thường có tác động trong một thời gian dài, dẫn đến khó có thể đánh giá đầy đủ tính hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát tại một thời điểm nào đó. Do vậy, hệ thống chỉ tiêu đánh giá bên cạnh các chỉ tiêu định lượng như CAR, vốn pháp định,… cần các chỉ tiêu định tính và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đánh giá này.

Các giải pháp mà NHNN cần thực hiện để nâng cao hiệu lực thanh tra giám sát các NHTM là:

Thứ nhất, NHNN Việt Nam chủ trương thực hiện Basel 2 theo Công văn số 1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/3/2014 về việc triển khai thực hiện quy định an toàn vốn theo Basel 2 tại 10 ngân hàng. Điều này thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc triển khai Basel 2 ở Việt Nam. Những yếu tố được cân nhắc lựa chọn các ngân hàng tham gia thực hiện Basel 2 ở đây là các ưu tiên quốc gia, mức độ sẵn sàng về pháp lý và quản lý, các chuẩn mực kế toán, nguồn nhân lực, kỷ luật thị trường. Tuy nhiên, để triển khai Basel 2 đạt hiệu quả, trước mắt cần có những thay



đổi mạnh mẽ trong nhìn nhận và cách thức quản lý vốn chủ sở hữu ngân hàng để giải quyết những bất cập trong cơ chế quản lý của NHNN đối với vốn chủ sở hữu các ngân hàng.

NHNN cần đảm bảo tuân thủ 29 nguyên tắc giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel:

+ Với các nguyên tắc đã tuân thủ và đang triển khai, NHNN cần lộ trình tổng kết giai đoạn thí điểm thực hiện các nguyên tắc của Ủy ban Basel, đánh giá việc thực thi các quy định có liên quan trong hệ thống ngân hàng, từ đó sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý.

+ Với các nguyên tắc chưa tuân thủ, đó là các nguyên tắc về Hợp tác và cộng tác (Nguyên tắc 3); Phương pháp giám sát (Nguyên tắc 8); Quyền hạn khắc phục và xử lý vi phạm của cơ quan giám sát (Nguyên tắc 11); Giám sát tổng thể (Nguyên tắc 12); Mối quan hệ giám sát trong và ngoài nước (Nguyên tắc 13); Rủi ro chuyển đổi và rủi ro chính trị (Nguyên tắc 21); Rủi ro thị trường ( Nguyên tắc 22); Rủi ro lãi suất trong ghi sổ của ngân hàng (Nguyên tắc 23); Rủi ro hoạt động (Nguyên tắc 25): NHNN cần nhanh chóng xây dựng lộ trình ban hành các quy định về quản lý các loại rủi ro như rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất và quy định về phương pháp giám sát, giám sát tổng thể, quyền xử lý vi phạm và xây dựng mối quan hệ giữa các NHTW. Việc thực hiện các điều trên tạo nền tảng nâng cao năng lực và tính hiệu quả hoạt động của NHNN.

Thanh tra ngân hàng yêu cầu các NHTM có quy định nội bộ về đánh giá chất lượng tài sản Có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, qua đó các NHTM theo dõi, đánh giá, đo lường thường xuyên các yếu tố tác động thường xuyên đến tỷ lệ an toàn vốn. Đây cũng là cơ sở để thanh tra giám sát nhằm ngăn chặn nguy cơ giảm vốn chủ sở hữu và cũng là sự thay đổi tư duy đối với NHTM khi chuyển từ tuân thủ giới hạn phù hợp với quy mô tài sản sang quản trị vốn theo mức độ rủi ro.

Thứ hai, Cần có những quy định cụ thể bổ sung vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng nhằm đảm bảo áp dụng triệt để các nguyên tắc của trụ cột 2 của Basel 2, đó là:

- Phải thường xuyên đánh giá chính sách của ngân hàng về vốn chủ sở hữu, sự tuân thủ của ngân hàng đối với tỷ lệ vốn pháp định.



- Áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết khi phát hiện những bất cập trong quá trình đánh giá.

- Có quyền yêu cầu ngân hàng duy trì vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy

định tùy theo đặc điểm cụ thể của thị trường.

- Có quyền can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa tình trạng vốn của ngân hàng giảm xuống thấp hơn mức tối thiểu.

Từ thực tiễn kinh nghiệm của NHTW các nước khi áp dụng Basel 2 trong quản lý vốn chủ sở hữu của NHTM, việc tăng quyền hạn cho cơ quan giám sát ngân hàng giúp NHNN quản lý vốn chủ sở hữu của các NHTM tốt hơn, tránh được những cú sốc sẽ xảy ra trong tương lai.

Ngoài ra, cần bổ sung quy định về giới hạn liên quan đến đòn bẩy tài chính (vốn tự có/ tổng tài sản) của các NHTM. Hệ số này sẽ tồn tại song song với hệ số an toàn vốn tối thiểu khi đánh giá về mức độ an toàn vốn của NHTM. NHNN cần khảo sát và xây dựng mô hình đo lường để xác định chính xác giới hạn tối thiểu của hệ số vốn tự có so với tổng tài sản của NHTM. Uỷ ban Basel đã khuyến nghị về việc sử dụng hệ số đòn bẩy tài chính (Basel 3) để đánh giá mức độ an toàn của các NHTM đang kinh doanh trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn hoặc suy giảm [14].

Thứ ba, Tăng cường công tác giám sát, thanh tra việc triển khai của các NHTM:

- Yêu cầu ngân hàng, đặc biệt là 10 ngân hàng được lựa chọn phải đánh giá cụ thể mức độ chênh lệch giữa thực trạng hiện có và các yêu cầu của Basel 2 để xây dựng thành các hành động, dự án triển khai cụ thể theo từng quý gửi NHNN để đánh giá, yêu cầu điều chỉnh (nếu cần thiết), đảm bảo tính khả thi của kế hoạch triển khai Basel 2 đối với từng ngân hàng.

- Yêu cầu NHTM hàng quý báo cáo rõ tiến độ triển khai, các khó khăn vướng mắc (nếu phát sinh) để phối hợp với NHNN xử lý trong suốt quá trình thực hiện.

- Công tác theo dõi, giám sát được thực hiện hàng quý đối với quá trình triển khai dự án, kế hoạch áp dụng Basel 2 tại từng ngân hàng để NHNN kịp thời chỉ đạo, có các giải pháp phù hợp đảm bảo NHTM thực hiện theo đúng lộ trình đề ra.

Trong trường hợp ngân hàng không thực hiện được đúng lộ trình, thông qua



kết quả giám sát thường xuyên, NHNN sẽ chủ động chỉ đạo NHTM thực hiện biện pháp cụ thể, điều chỉnh kế hoạch, tăng cường các nguồn lực cần thiết,… để tiếp tục triển khai quyết liệt, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Basel 2 trình NHNN phê duyệt.

Thứ tư, Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng. Hệ thống này bao gồm:

Tính độc lập:

Điều này nhằm tránh sự ảnh hưởng trực tiếp từ Chính phủ theo nguyên tắc giám sát ngân hàng của BIS. Những tiêu chí cần thiết là:

- Không có văn bản nào cho thấy sự can thiệp sâu của Chính phủ vào quá trình giám sát ngân hàng cũng như khai thác các nguồn lực cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan giám sát.

- Việc tài trợ cơ quan giám sát không làm phương hại tới quyền hạn và sự độc lập của nó như: khung tiền lương, nguồn lực thuê các chuyên gia đầu ngành từ bên ngoài, ngân quỹ và chương trình đào tạo, trang thiết bị, chi phí công tác phải đầy đủ và hợp lý.

Hiệu quả của chi phí nội bộ (bao gồm chi phí thành lập)

Để có được hiệu quả chi phí nội bộ cần sự phân phối lại lao động của cơ quan giám sát, từ đó tận dụng hiệu quả kinh tế theo quy mô trong cơ quan giám sát. Đây là những khoản chi phí thành lập cố định và những khoản đầu tư vào nguồn nhân lực. Ví dụ, ngân hàng và công ty bảo hiểm cùng sử dụng nguồn IT để lập báo cáo gửi cơ quan giám sát sẽ giúp tiết kiệm được chi phí cố định.

Bên cạnh đó, nếu các nhân viên giám sát chuyên ngành làm việc cùng nhau trong một cơ quan giám sát sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển tải và trao đổi thông tin trong một tổ chức, không cần phải thiết lập cơ chế đặc biệt để trao đổi thông tin mà vẫn đảm bảo dữ liệu bí mật và an toàn, từ đó tiết kiệm được chi phí bảo mật thông tin.

Hiệu quả chi phí ngoại biên

Đây là mức chi phí giám sát mà các ngân hàng bị giám sát phải chịu. Nó được đo bằng giá trị của những nguồn lực bên ngoài (bao gồm cả thời gian) mà các ngân hàng bỏ ra để tuân thủ quá trình thanh tra giám sát. Chi phí này ảnh hưởng tới



chi phí của sản phẩm và dịch vụ được cung cấp trên thị trường, dẫn đến làm giảm khối lượng giao dịch, thậm chí không đem lại lợi nhuận đối với một số sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, xét trên góc độ giám sát, chi phí này hạn chế được sự phân tán, trùng lắp chồng chéo trong giám sát.

Sự phối kết hợp trong nước và quốc tế

Để thể chế hóa sự liên kết giữa các cơ quan giám sát, có thể dùng hình thức đại diện chéo, tức là cơ quan giám sát này là thành viên của ban quản trị cơ quan giám sát khác, từ đó tạo nên sự phối hợp song phương ở mức độ cao trong giải quyết những vấn đề liên quan đến chính sách chung. Tuy nhiên, điều này làm được khi cấu trúc của các cơ quan giám sát phải tương hợp với nhau.

Chế độ báo cáo và tính minh bạch

Nhằm thúc đẩy báo cáo công khai, cơ quan giám sát nên thường xuyên lập báo cáo công khai hàng năm một cách chi tiết về hoạt động của họ và về các nguồn lực và vốn sử dụng gồm:

- Chi phí giấy tờ, vật liệu, nhân công thực hiện công tác giám sát.

- Chi phí mỗi ngân hàng bị giám sát phải gánh chịu.

- Chi phí sử dụng các phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động chức năng của cơ quan giám sát.

Thứ năm, Phát triển mô hình cảnh báo sớm giám sát ngân hàng

Hiện nay, NHNN quản lý an toàn vốn chủ sở hữu của các NHTM dựa trên số liệu báo cáo của các NHTM, có độ trễ về thời gian. Mặt khác, ở Việt Nam chưa có mô hình định lượng có tính chất dự báo tình hình vốn chủ sở hữu của các NHTM dẫn đến công tác dự báo mức đủ vốn cũng như cảnh báo những NHTM có nguy cơ gặp rủi ro về vốn trong tương lai chưa thực hiện được. Để đảm bảo tính an toàn vốn xét trên quan điểm của NHNN, luận án đề xuất giải pháp phát triển mô hình cảnh báo sớm (EWS) trong giám sát ngân hàng. Mô hình dự đoán các ngân hàng ở trang thái nguy hiểm nếu tỷ lệ CAR < 6%; ngân hàng có nguy cơ phá sản nếu CAR < 2%. Mô hình EWS sử dụng mô hình logit để xác định khả năng các ngân hàng đảm bảo an toàn vốn trong các năm tiếp theo. Mô hình Logit có dạng:


e 0 1 X 1 i ... k X ki u i

Pi= P(Yi=1)= 1 e 0 1 X 1 i ... k X ki u i

Yi là biến phụ thuộc nhận hai giá trị 0 hoặc 1. X1i,…,Xki: là biến độc lập của mô hình.

β0, β1,…, βk: là các hệ số của mô hình.

P(Yi=1/X1i, X2i,…,Xki)=pi là xác suất để xảy ra Y=1 trong điều kiện đã biết các giá trị của các biến độc lập X1i,…,Xki.

Do Yi có hai giá trị tuân theo quy luật phân phối Bernulli nên ta có:

P(Yi=0/X1i, X2i,…,Xki)=1-pi

ui: là sai số ngẫu nhiên (đại diện cho những yếu tố có tác động đến pi nhưng không có mặt trong mô hình).

Biến phụ thuộc nhận hai giá trị 0 và 1. Trong đó, giá trị 1 phản ánh tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro lớn hơn hoặc bằng 9%. Giá trị 0 phản ánh tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro nhỏ hơn 9%. Biến này có độ trễ là 1 năm so với các biến độc lập.

Biến độc lập được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu được tính dựa trên bảng cân đối kế toán được FED và FDIC sử dụng để đánh giá rủi ro. Các biến này bao gồm các biến tài chính như: Quy mô ngân hàng, vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, Dự phòng tổn thất rủi ro tín dụng/tổng dư nợ tín dụng, tổng tiền gửi khách hàng, tổng tiền cho vay khách hàng, hệ số thanh khoản, khả năng sinh lợi[32], rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản, chênh lệch lãi suất, số năm trong kinh doanh ngân hàng và cơ cấu trong thành phần cho vay,...; biến tăng trưởng tín dụng và biến yếu tố kinh tế như: số doanh nghiệp phá sản, thu nhập bình quân đầu người,…

Để mô hình có thể đánh giá và dự báo đúng cần một hệ thống tiêu chuẩn dữ liệu đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay cơ sở dữ liệu của các ngân hàng chưa đầy đủ và thiếu chính xác, các ngân hàng chưa công khai vốn tự có (vốn cấp 1, vốn cấp 2), chưa xác định được vốn kinh tế - phần vốn cần có để bù đắp cho những tổn thất ngoài dự kiến do rủi ro gây ra trong hoạt động kinh doanh, danh mục các loại tài sản có rủi ro trong tổng tài sản, sự thay đổi cách trình bày và tính

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023