Giải Pháp Đối Với Ngân Hàng Thương Mại



này đòi hỏi tài chính, thời gian, kiến thức và công sức lâu dài của cả hệ thống.

Thứ tư, NHNN tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM được tham gia các dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ cho NHNN và các NHTM.

Thứ năm, NHNN tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia… theo quy định trong các Biên bản ghi nhớ song phương được ký kết giữa các Bộ trưởng về hợp tác trong thông tin và quản lý. Để đảm bảo chất lượng của báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tài chính hàng năm, Bộ Tài chính quy định kỹ lưỡng về trình bày, ghi nhận và đo lường các công cụ tài chính phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, NHNN đưa ra các yêu cầu về báo cáo và trách nhiệm giải trình đối với các NHTM hàng năm.

Thứ sáu, Để rộng đường cho mở rộng công bố thông tin của NHNN đầy đủ, chính xác, kịp thời thì việc rà soát lại và đề nghị danh mục những loại thông tin thuộc bí mật nhà nước và những thông tin được công bố cần sớm được hoàn thiện (phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính…). Đồng thời, chế tài xử phạt đối với cung cấp thông tin sai sự thật, che giấu thông tin… cần được rõ ràng và đủ sức răn đe, buộc các cá nhân và cơ quan báo chí cũng như các tổ chức tín dụng phải cẩn trọng, trung thực trong việc cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, bản thân NHNN cũng phải quản lý tốt hơn hoạt động truyền thông, hoạt động quan hệ công chúng, quan hệ báo chí tại NHNN. Một số cơ quan cấp bộ, tổng cục khác ở Việt Nam có những bộ phận chuyên về quan hệ công chúng và quan hệ báo chí (về tổ chức, con người, phương tiện, quy chế…). Thiết nghĩ, NHNN cần sớm có những động thái này để nâng cao chất lượng truyền thông và công bố thông tin.

3.2.2. Giải pháp đối với ngân hàng thương mại

Để quản lý hoạt động của các NHTM, việc tăng cường năng lực hoạt động và năng lực quản lý của ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình tái cơ cấu. Trong khuôn khổ của luận án, các NHTM cần tập trung vào một số giải pháp gắn liền với quản lý tốt vốn chủ sở hữu của mình. Điều này phụ thuộc vào chiến lược phát triển của từng ngân hàng.

Thứ nhất, Hiện nay các NHTM đều đưa ra định hướng chiến lược phát triển


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.


trở thành ngân hàng bán lẻ giống nhau, nên cơ chế cần khuyến khích đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng phục vụ khách hàng. Cần có sự rạch ròi hơn trong việc phân loại loại hình kinh doanh ngân hàng như ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư nhằm tránh các rủi ro. Việc tái cấu trúc hệ thống NHTM trong thời gian tới nên tập trung để làm rõ các vấn đề sau [41]:

Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 22

+ Xây dựng một hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế về dịch vụ ngân hàng.

+ Xác định cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý tùy thuộc vào từng ngân hàng. Sẽ không có cơ cấu vốn chủ sở hữu tối ưu cho tất cả các ngân hàng mà tùy thuộc theo quy mô, tình hình hoạt động, phân khúc khách hàng mà ngân hàng đó phục vụ để có được vốn chủ sở hữu với cơ cấu vốn cấp 1, vốn cấp 2 hợp lý, vừa bù đắp được các tổn thất ngoài dự kiến do rủi ro gây ra, vừa đảm bảo được các hệ số an toàn trong hoạt động.

+ Đảm bảo nâng cao tính an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

+ Việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan.

+ Tái cơ cấu ngân hàng được triển khai dưới nhiều hình thức, biện pháp và theo lộ trình thích hợp. Căn cứ vào đặc điểm của từng ngân hàng cụ thể sẽ có hình thức và biện pháp hợp lý.

Thứ hai, Các NHTM thực hiện quản lý sự thay đổi trong kinh doanh ngân hàng, việc tuân thủ là bắt buộc, nhưng đôi khi thực hiện tuân thủ có thể dẫn đến xung đột giữa các bộ phận kinh doanh và nhà quản lý. Vì thế mỗi NHTM cần tăng cường quản lý sự thay đổi. Các quyết sách về quản lý vốn chủ sở hữu của chính NHTM khởi đầu và được giám sát thực hiện từ chính hội đồng quản trị, ban điều hành và các khối chức năng như kế toán, thống kê, công nghệ, thư ký công ty tại ngân hàng. Việc duy trì hoạt động của Hội đồng quản trị là vấn đề cực kỳ quan trọng trong quản lý ngân hàng nói chung và quản lý vốn chủ sở hữu nói riêng.

Các NHTM tiếp tục thiết lập và thực hiện cơ cấu tổ chức ngân hàng theo thông lệ quốc tế, tách 3 bộ phận front–office, middle-office, back- office ở trụ sở



chính và các chi nhánh, đưa các ủy ban như ủy ban ALCO, ban kiểm soát, hội đồng quản lý rủi ro… hoạt động thường xuyên và có hiệu quả.

Hoàn thiện thường xuyên các quy định quản lý nội bộ trong từng hệ thống ngân hàng theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng và phù hợp với hệ thống pháp lý khác của NHTM. Đây là các quy định không thể thiếu, có ý nghĩa giảm bớt xung đột lợi ích trong ngân hàng, khuyến khích sự hợp tác và tận tụy làm việc của cán bộ, đảm bảo sự công bằng trong nội bộ ngân hàng.

Các NHTM chú trọng xây dựng hệ thống thông tin nội bộ và hệ thống quản lý nội bộ để có sơ sở dữ liệu đầy đủ và cần thiết phục vụ cho quản lý và kinh doanh của ngân hàng. Việc thiết lập các giải pháp tích hợp trong nội bộ ngân hàng là vô cùng cần thiết để gia tăng tính hữu hiệu trong quản lý.

Thứ ba, Các NHTM xây dựng và thực hiện kế hoạch bán cổ phần cho các nhà đầu tư tài chính, cổ đông chiến lược theo kế hoạch cụ thể của mình với tỷ lệ sở hữu do Chính phủ quy định.

Thứ tư, Các NHTM thường xuyên sử dụng các hệ thống thông tin phổ biến trên thế giới như Bloomburg, Reuters khi cần cập nhật thông tin quốc tế trong và ngoài nước về hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như khi cần có thông tin để quyết định các vấn đề quan trọng.

Thứ năm, Để quản lý vốn chủ sở hữu của mình hữu hiệu hơn, các NHTM nên thực hiện quản trị vốn hiệu quả theo 7 hoạt động chính sau:

+ Phương pháp đo lường vốn: Đưa ra và xác định chính xác các định nghĩa, triết lý quản trị vốn, các chỉ số đo lường và các chỉ tiêu vốn.

+ Chẩn đoán vốn: Đánh giá về thực trạng vốn và tác động khi tham gia Basel 2.

+ Giảm lãng phí vốn: Xác định các đòn bẩy vốn để giảm lãng phí vốn mà không phải thay đổi mô hình kinh doanh.

+ Mô hình kinh doanh vốn hiệu quả: Điều chỉnh các mô hình kinh doanh giữa các khối kinh doanh tại ngân hàng.

+ Phân bổ vốn: Dựa vào quy trình để phân bổ vốn theo hướng tối đa giá trị giữa các khối/mảng kinh doanh tại NHTM.



+ Tính sẵn có của vốn: Dựa vào tổng hòa các nguồn vốn để linh hoạt trong sử dụng vốn.

+ Tổ chức và quản trị: Xác định mô hình và tổ chức quản trị phù hợp.

Những hướng hoạt động này giúp NHNN kiểm soát hoạt động của NHTM, mặt khác giúp NHTM tối ưu hóa các nguồn vốn khan hiếm, đạt được hiệu quả trong sử dụng vốn chủ sở hữu. NHTM cũng cải thiện được năng lực trong đánh giá đúng về mức độ an toàn của vốn, phân bổ vốn hiệu quả hơn và đo lường được hiệu quả dựa trên giá trị.

Thứ sáu, Tăng cường quản lý nguồn nhân lực của NHTM.

Việc đào tạo và quản lý nhân lực tại NHTM là công việc thường xuyên và có ý nghĩa quyết định đến hoạt động ngân hàng vì con người đóng vai trò quyết định. Đối với quản lý vốn chủ sở hữu tại NHTM, vấn đề đào tạo nhân lực có liên quan là:

+ Đào tạo hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát, thư ký công ty, ban ALCO, hội đồng quản lý rủi ro của ngân hàng theo thông lệ tốt nhất về quản trị công ty do IFC và OECD đưa ra và được cụ thể hóa trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Nội dung đào tạo là các kiến thức theo thông lệ quốc tế về hoạt động quản lý công ty, sự phối hợp giữa họ trong điều hành ngân hàng, các văn bản pháp lý và cập nhật về quản trị ngân hàng, trách nhiệm của họ trong việc quản lý và điều hành ngân hàng nói chung và các quyết sách quản lý.

+ Đào tạo cán bộ thuộc khối chuyên môn như kế toán, thống kê, tin học, kế hoạch nguồn vốn, quan hệ đối ngoại, pháp chế… tại trụ sở chính về chuyên môn (theo bằng cấp, chứng chỉ, nghiệp vụ, pháp lý, kỹ năng tác nghiệp, văn hóa ngân hàng…) để họ có kiến thức nền tảng và kiến thức cập nhật khi tác nghiệp, qua đó nâng cao trình độ tham mưu tư vấn cho lãnh đạo trong các tình huống xảy ra.

+ Định kỳ thực hiện tốt công tác quản trị nhân sự ở các khối này như khen thưởng, kiểm tra đánh giá trình độ, giúp đỡ kinh phí học tập nâng cao trình độ, thực hiện luân chuyển cán bộ trong khối để tăng cường kiến thức, giảm bớt xung đột lợi ích.

+ Đối với các NHTM được M&A, hợp nhất, ban lãnh đạo các cấp ở NHTM rất nên quan tâm tới sự hòa nhập giữa các cấp độ nhân viên về văn hóa doanh nghiệp, đào tạo cán bộ, các vấn đề về rủi ro đạo đức… thông qua việc xem xét, bổ



sung, chỉnh sửa và hoàn thiện các quy định quản lý nội bộ. Qua đó, tránh việc ngại ngần, giữ kẽ hoặc “chảy máu xám” cán bộ.

Thứ bảy, Bước sang giai đoạn 2 của quá trình tái cơ cấu, các NHTM phải tiếp tục thực hiện xử lý nợ xấu (đạt mức độ dưới 3%), đồng thời kiểm soát nợ xấu mới.

Trong thời gian tới, tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM là một quá trình thường xuyên, liên tục. Mục tiêu đến năm 2017, hệ thống NHTM Việt Nam còn khoảng 17 ngân hàng, trong đó có từ 1-2 ngân hàng tầm cỡ khu vực; 5-10 ngân hàng có quy mô vốn ở mức trung bình. Do đó, NHNN cần thực hiện một số biện pháp sau:

+ Tiếp tục cơ cấu lại triệt để và toàn diện hệ thống NHTM; kiên quyết xử lý dứt

điểm các NHTM yếu kém theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của nhà nước.

+ Phát triển hệ thống NHTM theo hướng đa năng, hiện đại, hoạt động minh bạch, an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình, có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, chuẩn mực an toàn hoạt động phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính.

+ Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình VAMC, đồng thời tăng cường năng lực và nguồn lực cho VAMC trong việc xử lý nợ xấu.

3.2.3. Kiến nghị với Chính phủ và Bộ Tài chính

3.2.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

Chính phủ cần tiến tới xây dựng một thị trường tài chính hoạt động ổn định và lành mạnh. Phát triển quy mô, đồng thời nâng cao chất lượng của các thành viên hoạt động trên thị trường tài chính, đa dạng hóa các loại hàng hóa trên để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường. Từng bước hoàn thiện cấu trúc của thị trường tài chính đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước, đồng thời giúp cho các bộ phận trong thị trường này vận hành một cách đồng bộ, nhịp nhàng: thị trường vốn, thị trường tiền tệ. Chủ động mở cửa thị trường tài chính và hội nhập thị trường tài chính Việt Nam với thị trường tài chính quốc tế để các định chế tài chính trung gian nước ngoài có uy tín, có năng lực hoạt động tốt tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam để tạo ra môi trường cạnh tranh đối với các định chế tài chính trong



nước. Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam.

Trong giai đoạn 2016 – 2020 cần hình thành mạng an toàn tài chính [52]. Mạng lưới này vừa hướng tới giảm thiểu các rủi ro về khủng hoảng tài chính sẽ diễn ra trong tương lai vừa giúp cho các biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng có thể được áp dụng mang tính thị trường hơn. Trong giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng với quy mô nhỏ, niềm tin của công chúng sẽ không bị ảnh hưởng nhiều khi thực hiện các biện pháp cho đóng cửa hay phá sản ngân hàng. Xây dựng một mạng lưới an toàn tài chính sẽ làm giảm chi phí của cuộc tái cơ cấu do Chính phủ không cần phải sử dụng biện pháp bảo đảm toàn bộ hay NHNN cũng không quá vất vả để tái cấp vốn khẩn cấp cho các ngân hàng thiếu hụt thanh khoản. Bên cạnh đó, mạng lưới này giúp hạn chế được vấn đề rủi ro đạo đức. Từ đó, kỷ luật thị trường trong hệ thống tài chính được đảm bảo, các ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt hơn.

Về hệ thống giám sát tài chính, Chính phủ cần xây dựng mô hình và cách thức giám sát mới để nâng cao hiệu quả giám sát. Chuyển từ mô hình giám sát theo chức năng hiện nay sang mô hình giám sát hợp nhất. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý, đặc biệt là đối với NHNN, UBCKNN, Bộ Tài chính. Trong đó, cần thống nhất thẩm quyền giám sát ngân hàng về NHNN để đảm bảo tính độc lập, thống nhất. Đồng thời thiết lập cơ chế pháp lý cho việc cung cấp, chia sẻ thông tin và cơ chế phối hợp trong giám sát hệ thống tài chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan. Ngoài ra, cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát tài chính gồm: tính độc lập của chức năng giám sát, hiệu quả của chi phí nội bộ, hiệu quả của chi phí ngoại biên, sự phối kết hợp trong nước, sự phối kết hợp quốc tế, nguồn lực sẵn có, chế độ báo cáo và tính minh bạch, xung đột lợi ích [30].



3.2.3.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính

Quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng là một nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế đất nước. Nội dung này bao quát trên phạm vi rộng, có tác động sâu rộng tới các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Do đó, bên cạnh sự quản lý giám sát trực tiếp của NHNN, Bộ Tài chính với cơ quan chuyên trách là Vụ Tài chính các ngân hàng và các tổ chức tài chính cần phối hợp thực hiện thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung, đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống. Ngoài ra, Bộ Tài chính cần tăng cường quản lý các lĩnh vực có tác động tới vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại như chứng khoán, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán độc lập,…

Với vai trò làm đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại một số ngân hàng TMCP Nhà nước, Bộ cần có sự phối hợp với các chủ sở hữu khác của ngân hàng xây dựng chiến lược quản lý ngân hàng hiệu quả. Bên cạnh việc đầu tư sinh lời cần chú trọng công tác quản lý các rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường,…) thông qua việc đầu tư trình độ cán bộ chuyên môn, nâng cấp, áp dụng hệ thống kế toán, kiểm toán theo chuẩn quốc tế, xây dựng một hệ thống thông tin dữ liệu chính xác, đầy đủ, cập nhật và đầu tư công nghệ.

Bộ Tài chính cần yêu cầu các cơ quan giám sát chuyên ngành chứng khoán, bảo hiểm (là Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Cục Quản lý giám sát bảo hiểm) theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần của các TCTD; các giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp hoạt động các các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; các khoản cho vay đối với các nhà đầu tư có giao dịch lớn cổ phiếu để hạn chế việc TCTD cho vay, tài trợ lớn các giao dịch mua bán cổ phiếu gây tác động bất lợi tới thị trường tài chính và rủi ro cho ngân hàng. Từ đó phối hợp với NHNN hạn chế rủi ro tiềm ẩn đối với hệ thống ngân hàng và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.



KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, luận án đã xây dựng định hướng NHNN quản lý vốn chủ sở hữu của các NHTM trong giai đoạn tới. Cụ thể, chuẩn hóa và cam kết thực hiện theo thông lệ quốc tế Basel 2, quản lý của NHNN đối với vốn chủ sở hữu của NHTM tuân theo nguyên tắc thị trường và gắn liền với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện thu hút các đối tác nước ngoài tham gia vào quản lý điều hành hoạt động ngân hàng.

Trên cơ sở những định hướng trên cùng với việc phân tích thực trạng quản lý ở chương 2, luận án đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý của NHNN Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các NHTM.

Đối với NHNN bao gồm các giải pháp: Tăng tính độc lập của ngân hàng nhà nước Việt Nam; Tăng cường hiệu lực giám sát tài chính của ngân hàng nhà nước; Áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro; Hoàn thiện các công cụ pháp lý theo thông lệ quốc tế; Tăng vốn chủ sở hữu, đảm bảo cơ cấu vốn chủ sở hữu hợp lý hơn đối với các NHTM; Tăng cường các biện pháp quản lý hành chính; Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực; Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê.

Đối với NHTM tập trung các giải pháp liên quan đến tái cấu trúc, năng lực quản trị, quy mô và chất lượng vốn tự có, đào tạo cán bộ.

Để các giải pháp có tính khả thi, luận án đã đề xuất kiến nghị với Chính phủ và với Bộ Tài chính về việc tạo hành lang thuận lợi cho việc thực hiện các giải pháp, trong đó nhấn mạnh đến sự cần thiết phải đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô và xây dựng cơ quan giám sát tài chính hợp nhất thực hiện chức năng giám sát toàn diện hệ thống ngân hàng.

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí