Thứ hai, quy định về hệ số rủi ro của các tài sản có trong công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu còn nhiều bất cập.
Thứ ba, chưa đề cập đến các nguyên tắc như trụ cột số 2 và số 3 của Basel 2. Hơn nữa, trong trụ cột thứ nhất, Basel 2 đã đưa ra các cách tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy mô, đặc điểm khác nhau và các ngân hàng có thể tự lựa chọn cách tiếp cận riêng cho mình; trong khi đó, quy tắc xác định mức độ đủ vốn của Việt Nam áp dụng chung cho tất cả các ngân hàng.
Thứ tư, việc tăng CAR từ 8% lên 9% (điều 4, thông tư 13) có ảnh hưởng trước tiên đến các NHTM hiện chưa đáp ứng được tỷ lệ này. Khác với giai đoạn 2005-2010, thông tư 13 được đưa ra trong bối cảnh vĩ mô không mấy thuận lợi, tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát tăng cao làm cho việc đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn theo thông tư 13 trở nên khó khăn với rất nhiều ngân hàng. Bên cạnh đó, cùng với sự suy giảm của thị trường chứng khoán, cổ phiếu ngành ngân hàng giảm mạnh 18% trong năm 2010 làm kế hoạch huy động vốn tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng cuối năm 2010 của nhiều ngân hàng nhỏ không đạt được, làm mất đi bước đệm căn bản để thực hiện tiêu chuẩn CAR 9% của các ngân hàng này.
Thứ năm, chưa hạn chế được tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.
Thông tư số 19/2010/TT-NHNN
Ngay trước thời điểm Thông tư 13 có hiệu lực, NHNN đã ban hành Thông tư 19/2010/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13. Thông tư 13 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ra đời đúng lúc nền kinh tế chúng ta đang thiếu vốn và bản thân các ngân hàng cũng thiếu vốn, lạm phát tương đối cao. Vì thế các ngân hàng thương mại không huy động được vốn và khả năng cung ứng của các ngân hàng là rất khó. Mặt khác, những quy định tại Thông tư 13 làm cho khả năng đáp ứng vốn của các ngân hàng hẹp lại. Một số ngân hàng gặp khó khăn thì đã đề nghị nên điều chỉnh lại, nhất là những ngân hàng có khả năng thanh khoản yếu. Việc sửa Thông tư 13 nới rộng ra khả năng huy động vốn, nới rộng khả năng để cho ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả hơn và khả năng này cũng có thể làm cho thanh khoản các ngân hàng được cải thiện. Do đó, Thông
tư 19 đã sửa đổi theo hướng điều chỉnh cách xác định các thành phần trong các công thức tính toán của Thông tư 13, đặc biệt là tỷ lệ cấp tín dụng/huy động. Thông tư 19 có ý nghĩa tạo điều kiện tốt hơn cho các ngân hàng sử dụng vốn và huy động vốn có cải thiện hơn trước.
Ngày 27/9/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 theo hướng bổ sung thêm nguồn vốn huy động được tính vào nguồn vốn dùng để cấp tín dụng bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn và tiền vay của Kho bạc, 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ TCTD), tiền vay của TCTD có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên (trừ tiền vay của TCTD khác trong nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời đối với các tỷ lệ về khả năng chi trả). Tuy việc sửa đổi theo hướng nới lỏng hơn về định nghĩa vốn huy động nhưng vẫn có rất nhiều ngân hàng không đáp ứng được tỷ lệ LDR dưới 80% theo quy định. Do đó, ngày 30/8/2011, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Thông tư số 22/2011/TT- NHNN. Theo đó, NHNN chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy định tại Thông tư 13 và được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 19. Bên cạnh đó, Thông tư số 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu [26].
Những thay đổi thể hiện trong Thông tư 19 đã giúp cho các tổ chức tín dụng tăng khả năng sử dụng nguồn vốn huy động được. Cụ thể:
- Những vấn đề liên quan đến tỷ lệ khả năng chi trả, định nghĩa về nguồn vốn huy động là nới lỏng hơn trước. Điều này giúp ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tín dụng và hoàn thành kế hoạch kinh doanh.
- Định lại cách tính tỷ lệ tổng tài sản “có” khả năng thanh toán ngay trên tổng tài sản “nợ” được xác định vào cuối ngày. Tuy tỷ lệ này vẫn giữ nguyên 15% nhưng theo Thông tư 19, tổng tài sản sẽ được tính bao gồm toàn bộ số dư tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn đến hạn thanh toán mà ngân hàng gửi tại tổ chức tín dụng khác (trừ ngân hàng chính sách).
Bên cạnh những mặt tích cực, một số điểm như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hay hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay đầu tư chứng khoán, kinh doanh bất động sản... không được nhắc đến trong Thông tư 19, tức là những điểm này vẫn
được áp dụng như các điều khoản quy định tại Thông tư 13. Như vậy, Thông tư 19 vẫn bó hẹp tín dụng đối với chứng khoán và bất động sản khi giữ nguyên quy định hệ số trích lập rủi ro khi cho vay chứng khoán, bất động sản vẫn duy trì mức 250%, khiến cho dòng tiền vào các đối tượng này vẫn bị hạn chế.
Thông tư số 36/2014/TT-NHNN
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ năm 2008, đến năm 2014 đã trôi qua 6 năm nhưng kinh tế thế giới vẫn đầy bất ổn. Tăng trưởng kinh tế thế giới đã giảm sâu xuống còn 3,2% trong hai năm 2012 – 2013. Và tăng trưởng chỉ bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trở lại với mức tăng nhẹ ước đạt khoảng 3,4% vào năm 2014. Như vậy, có thể thấy tăng trưởng kinh tế toàn cầu giai đoạn 2010-2014 ở mức thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng trung bình đạt xấp xỉ 5% giai đoạn trước khủng hoảng tài chính toàn cầu. Bên cạnh đó, các nước lớn tiếp tục loay hoay với vấn đề nợ công, sự yếu kém của khu vực ngân hàng, tổng cầu yếu và sự tê liệt của chính sách. Chính sách tài khóa thắt lưng buộc bụng và việc cắt giảm tiền lương tại nhiều quốc gia chưa đem lại kết quả tốt đẹp trong việc giải quyết việc làm, ngăn chặn sự căng thẳng của nợ công và sự yếu kém của khu vực tài chính.
Trong nước, những bất ổn của nền kinh tế thế giới đã tác động không thuận đến nền kinh tế Việt Nam. Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế cùng với những mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao (năm 2010 lạm phát tăng 11,75%, năm 2011 tăng vọt lên 18,13%) ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế trong ba năm 2011-2013 đạt tỷ lệ thấp (bình quân chỉ tăng 5,52%/năm) và có sự tăng nhẹ trong năm 2014 (5,98%).
Trong giai đoạn 2010-2014, Thông tư 13, Thông tư 19 và Thông tư 22 đã đi vào cuộc sống, được các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quán triệt thực hiện hiệu quả, góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động đối với từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như cả hệ thống. Tuy nhiên, Thông tư 13 và các Thông tư sửa đổi đã bộc lộ một số nội dung chưa phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay cũng như quá trình hội nhập quốc tế. Do đó, việc ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN
quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm giải quyết các vấn đề sau:
Trước hết, sửa đổi một số quy định không còn phù hợp, hoàn thiện, bổ sung và tiếp cận sát hơn với thông lệ quốc tế về quản trị ngân hàng và quản lý, giám sát ngân hàng, từng bước thực hiện các quy định của Basel 2 về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, bảo đảm kiểm soát tốt chất lượng hoạt động, khả năng chi trả, thanh khoản, an toàn hoạt động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần, cấp tín dụng của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bảo đảm hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển ổn định, bền vững, an toàn, hiệu quả.
Thứ ba, tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động thông qua các cơ chế báo cáo, tự công khai để giám sát của chính nội bộ TCTD, các thành viên góp vốn, cổ đông của TCTD và tăng cường sự giám sát, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm an toàn trong hoạt động đối với từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như toàn hệ thống.
Thứ tư, hạn chế việc sở hữu chéo không lành mạnh, sự thâu tóm, chi phối của một hoặc một số TCTD đối với TCTD khác thông qua các hoạt động cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần và các hình thức khác.
Ngày 20/11/2014, NHNN đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 36) có hiệu lực từ ngày 01/02/2015 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư mới này thay thế một loạt các văn bản như Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN ngày 01/2/2008 về giới hạn cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, Thông tư 13, 19 và 22 về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.Theo NHNN đánh giá, Thông tư số 36 tạo nên những chuẩn mực về quản trị, an toàn hoạt động ngân hàng mới phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng trong giai đoạn phát triển mới để từng bước đưa hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. So với các quy định trước có liên quan, Thông tư 36 đã bổ sung một số điểm mới như [47]:
- Bổ sung quy định việc xác định giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp và việc xử lý đối với các trường hợp khi giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp giảm thấp hơn mức vốn pháp định.
- Bổ sung quy định về vốn tự có và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
- Hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán được giảm từ 250% (theo quy định tại Thông tư 13) xuống còn 150%.
- Bổ sung khái niệm người có liên quan của cá nhân, tổ chức làm căn cứ duy trì, tính toán các giới hạn cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư của TCTD, chi nhánh NHNNg.
- Bổ sung các yêu cầu về công khai, báo cáo việc cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần đặc biệt đối với người có liên quan của những đối tượng không được cấp tín dụng, đối tượng hạn chế cấp tín dụng. Cập nhật, bổ sung danh sách cổ đông, thành viên quản lý, điều hành, kiểm soát nhằm mục đích vừa tăng cường năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vừa phục vụ công tác giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động của các thành viên, kiểm soát dòng tiền, hạn chế việc tập trung vốn, sở hữu chéo, thao túng hoặc chi phối thông qua những người có liên quan.
- Bổ sung một số quy định về điều kiện, giới hạn góp vốn, mua cổ phần giữa các công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát của NHTM, công ty tài chính; việc NHTM mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác nhằm phòng ngừa, kiểm soát, hạn chế tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng.
Thông tư 36 tác động lớn tới hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Thông tư có tác động mạnh làm giảm tình trạng sở hữu chéo và lợi ích nhóm thao túng trong ngành ngân hàng và quá trình này có thể sẽ thúc đẩy việc bộc lộ đầy đủ hơn nợ xấu ngành ngân hàng. Do đó tổng lượng vốn được phép cho vay đầu tư, kinh doanh trên thị trường cổ phiếu sẽ bị giảm xuống.
Mặt khác, việc điều chỉnh giảm hệ số rủi ro nói trên sẽ giúp các ngân hàng cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán hưởng lợi khi tính CAR. Tuy nhiên, phạm vi áp hệ số rủi ro 150% được mở rộng ra so với Thông tư 13 có thể khiến tổng tài sản có rủi ro tăng lên. Các khoản cho vay công ty quản lý quỹ và cho vay đảm bảo bằng vàng không được khuyến khích so với trước. Quy định mới loại trừ cổ phiếu quỹ và các khoản cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác khi tính vốn cấp 1 sẽ làm giảm CAR với các ngân hàng cấp nhiều tín dụng để góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác. Qua đó quy định này giúp giảm sở hữu chéo, giảm tình trạng vốn ảo trong các ngân hàng.
Bên cạnh đó, Thông tư 36 có tác động nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các hoạt động cấp tín dụng, đầu tư,... trở nên minh bạch hơn, công khai hơn.
Vốn cấp 2:
Trong các quy định trên, vốn cấp 2 bao gồm:
(i) Số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (50% số dư với tài sản cố định và 40% số dư với tài sản tài chính);
(ii) Quỹ dự phòng tài chính tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro;
(iii) Trái phiếu chuyển đổi có kỳ hạn ban đầu tối thiểu 5 năm, các công cụ nợ có kỳ hạn tối thiểu 10 năm và không được đảm bảo bằng tài sản của tổ chức tín dụng. Tổng giá trị của các khoản mục này tối đa bằng 50% giá trị vốn cấp 1.
Khi xác định vốn cấp 2, NHNN quy định giới hạn tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% giá trị vốn cấp 1. Ngoài việc xác định vốn cấp 1 và vốn cấp 2, NHNN còn xác định các khoản phải trừ khi tính vốn tự có là 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản cố định và 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính của tổ chức tín dụng.
Về Tổng tài sản “Có” rủi ro:
Tổng tài sản “Có” rủi ro là tổng giá trị tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản “Có” tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro:
Tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro = Giá trị tài sản “Có” x Hệ số rủi ro tương ứng.
Tài sản “Có” tương ứng của cam kết ngoại bảng = Giá trị của cam kết ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro.
Theo các chuyên gia, tỷ lệ CAR của Việt Nam chủ yếu tính toán trên cơ sở vốn cấp 1, còn các quốc gia khác ( Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan….) tính toán trên cơ sở CAR = ( Vốn cấp 1+ Vốn cấp 2)/Tổng tài sản có rủi ro.
Ðây là quy định mới so với các văn bản trước đây, trong khi ngày càng nhiều các NHTM hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, thì việc điều chỉnh này là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 29 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban Basel.
Trong giai đoạn 2011 - 2014, hầu hết các ngân hàng thương mại đều đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định (CAR ≥ 9%).
Quy định hệ số rủi ro giai đoạn năm 2005 – 2010 [23]:
Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4 nhóm là 100%, 50%, 20% và 0% (phụ lục 2).
Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% (phụ lục 3).
Sau đó, tài sản có rủi ro của các cam kết ngoại ngoại bảng được tính bằng cách nhân tài sản có ngoại bảng vừa chuyển đổi với các hệ số rủi ro.
Bảng 2.3: Hệ số rủi ro của các cam kết ngoại bảng
Hệ số rủi ro | |
Các cam kết ngoại bảng được Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh hoặc được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành | 0% |
Các cam kết ngoại bảng có tài sản bảo đảm bằng Bất động sản của bên vay | 50% |
Trường hợp khác | 100% |
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Của Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Nội Dung Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Quy Định Thanh Tra, Giám Sát Vốn Chủ Sở Hữu Các Ngân Hàng Thương Mại
- Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 14
- Công Cụ Và Phương Pháp Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Nguồn: Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN [23]
Quy định hệ số rủi ro giai đoạn năm 2011 đến nay [25]:
Với tài sản Có xác định theo mức độ rủi ro, NHNN quy định hệ số rủi ro gồm 5 nhóm với biên độ rộng hơn là 0%, 20%, 50%, 100%, 150% và 250%. So với giai đoạn 2005-2010, hoạt động chứng khoán và bất động sản của các NHTM được NHNN quy định hệ số rủi ro cho các khoản vay thuộc hai lĩnh vực này là 250%, những khoản vay đối với các khoản cho vay các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết của tổ chức tín dụng đã được nâng lên 150%. Nguyên nhân là do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, bong bóng bất động sản trong nước và sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán giai đoạn 2007-2010 đã khiến các khoản cho vay thuộc hai lĩnh vực này trở nên mất an toàn, có thể dẫn đến nợ xấu cho các ngân hàng thương mại. Hệ số rủi ro của các giá trị tài sản “Có” tương ứng từng cam kết ngoại bảng được quy định như sau:
- Cam kết ngoại bảng được Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh thanh toán hoặc được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước phát hành: Hệ số rủi ro là 0%.
- Cam kết ngoại bảng được bảo đảm bằng bất động sản: Hệ số rủi ro là 50%.
- Các hợp đồng giao dịch lãi suất, hợp đồng giao dịch ngoại tệ và cam kết ngoại bảng khác: Hệ số rủi ro là 100%.
Xét cả hai giai đoạn có thể thấy, tài sản có rủi ro mới chỉ tính đến rủi ro tín dụng, chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cách tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn dựa vào nội dung của Basel 1 chưa cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp vào mẫu công thức. Lý do là bởi phần lớn các ngân hàng Việt Nam còn thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ liệu để xây dựng mô hình lượng hóa các loại rủi ro này. Do đó, theo Thông tư 13, mẫu số sẽ nhỏ hơn và tỷ lệ CAR sẽ cao hơn và không tương đồng khi so sánh với tỷ lệ CAR được tính toán tại các nước tuân thủ Basel 2.
Đây là một bước tiến lớn để nâng cao các tiêu chuẩn an toàn, tăng cường hơn nữa sự minh bạch trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; qua đó góp phần hạn