chế tình trạng sở hữu chéo, thúc đẩy quá trình tái cơ cấu hệ thống, loại các tính toán
ảo trong vốn chủ sở hữu của NHTM .
Trong thời gian đầu, các tổ chức tín dụng còn gặp nhiều lúng túng, chưa đáp ứng được các điều kiện của các quy định này, nhưng trong tương lai sẽ có nhiều lợi ích, nhiều mặt tích cực hơn, các tổ chức tài chính sẽ phát triển bền vững, an toàn hơn. Vấn đề là các tổ chức tài chính cũng như NHNN cần có những lộ trình hợp lý để đáp ứng các điều kiện ấy. Bên cạnh đó vẫn còn một số điều chưa hợp lý cần được khắc phục như đã phân tích ở trên. Trong bối cảnh hội nhập với kinh tế toàn cầu của Việt Nam hiện nay thì các quy định an toàn trong tổ chức tín dụng là rất cần thiết để nền kinh tế nước ta hội nhập và phát triển bền vững.
Đến năm 2014 có 5 ngân hàng có cá nhân sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ 5% vốn điều lệ, 5 ngân hàng khác có tổ chức nắm giữ quá tỷ lệ 15% vốn, 8 ngân hàng mà nhóm cổ đông và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ 20%. Từ ngày 15/3/2015, các cá nhân, tổ chức và người có liên quan vi phạm quy định trên phải chuyển nhượng cổ phần cho NHNN và mất quyền biểu quyết, quyền ứng cử làm thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, đồng thời NHNN cấm NHTM cấp tín dụng mới cho cổ đông và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt trần. Như vậy, mức độ an toàn của các TCTD đã được cải thiện đáng kể, giảm bớt các NHTM yếu kém. Hình thành một số NHTM có quy mô lớn hơn, có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Hộp 1. Tình hình thực hiện Basel 2 tại một số ngân hàng:
- Vietinbank, Trong số 10 NHTM được chọn thí điểm trển khai Basel 2, Vietinbank là ngân hàng được đánh giá có chủ trương triển khai Basel 2 sớm và chủ động. Từ năm 2012, Vietinbank triển khai nhiều biện pháp để tăng vốn chủ sở hữu/ vốn tự có. Năm 2014, với sự hỗ trợ của các đối tác chiến lược là IFC và BTMH, Vietinbank tiếp tục đổi mới mô hình, ký hợp đồng với công ty Ernst & Young Singapore tư vấn xây dựng hệ thống quản lý tín dụng, xây dựng các mô hình đo lường các chỉ tiêu PD, EAD, LGD,…, xây dựng thành công khung quản trị rủi ro theo Basel 2, đang triển khai lộ trình thực hiện từ nay đến năm 2018.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Nội Dung Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Hệ Số Rủi Ro Của Các Cam Kết Ngoại Bảng
- Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 14
- Công Cụ Và Phương Pháp Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Vốn Chủ Sở Hữu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Vốn Điều Lệ Của Hệ Thống Ngân Hàng Giai Đoạn 2012-2015
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
- Vietcombank, tháng 6/2014, Vietcombank đã có những bước chuẩn bị tích cực trong lộ trình triển khai Basel 2, bắt đầu khởi động dự án “Phân tích hiện trạng và xây dựng lộ trình triển khai nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng theo yêu cầu của Hiệp ước vốn Basel 2”. Theo đó, Vietcombank đã phối hợp cùng với Ernst&Young xây dựng lộ trình nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng theo yêu cầu Basel 2 trong vòng 3 - 5 năm.
- BIDV, với quyết tâm triển khai thành công Basel 2, ngày 15/9/2014 thành lập Ban Quản lý dự án Triển khai Basel 2 tại BIDV do Tổng Giám đốc làm Trưởng ban. Ngày 26/3/2015, BIDV thành lập Ban quản lý dự án Tư vấn rà soát báo cáo phân tích chênh lệch GAP và xây dựng kế hoạch triển khai Master Plan Basel 2 (GAP&MP Basel 2) vào tháng 03/2015. Đây là dự án khởi đầu trong chuỗi dự án triển khai Basel 2, đóng vai trò bản lề trong quá trình triển khai Basel 2 tại BIDV 5
- 7 năm tới. Công ty TNHH PricewaterhouseCoopers Việt Nam là đối tác chính của BIDV tham gia hỗ trợ thực hiện dự án này.
- Techcombank đã hình thành Văn phòng Quản lý dự án Basel để có thể trực tiếp báo cáo lên Giám đốc khối Quản trị rủi ro trong việc thực hiện điều phối nguồn lực triển khai Basel 2;
- Sacombank đã dần đáp ứng được yêu cầu trong việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro trong toàn bộ hệ thống, cùng với đó thành lập Ban chỉ đạo và Đội dự án thực hiện Basel 2, tích cực đẩy mạnh hoàn thiện Basel 2 vào năm 2018.
Khi thực hiện quản lý vốn chủ sở hữu và các hoạt động ngân hàng khác, trên cơ sở hoạt động của thanh tra, NHNN đã có những nhận diện và biện pháp xử lý kịp thời:
Thứ nhất, Quản lý vốn chủ sở hữu theo thực tế cơ cấu sở hữu. Ví dụ: tính
đến ngày 30/6/2015:
- Nhóm NHTM có yếu tố nhà nước gồm 4 NHTM 100% sở hữu Nhà nước (Agribank vốn điều lệ 28.874 tỷ VND, ngân hàng TNHH MTV Xây Dựng vốn điều lệ 7500 tỷ VND, ngân hàng TNHH MTV Đại Dương vốn điều lệ 4000 tỷ VND, ngân hàng TMCP GPbank vốn điều lệ 3.018 tỷ VND): Nhà nước cấp phát phần vốn theo yêu cầu và quy trình.
Đối với 3 NHTM Nhà nước đã cổ phần hóa là BIDV vốn điều lệ 31.481 tỷ VND, VCB vốn điều lệ 26.650 tỷ VND, Vietinbank vốn điều lệ 37.723 tỷ VND: Phần tiền thu được từ việc cổ phần hóa được quản lý theo quy định hiện hành: nộp về SCIC, sau đó Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét và quyết định việc sử dụng nguồn vốn thặng dư sau khi bán cổ phần của ngân hàng khi có phương án cụ thể. Hiện nay, tỷ lệ sở hữu nhà nước tại ba ngân hàng này còn cao, các ngân hàng sẽ thực hiện giảm bớt thông qua việc tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác chiến lược nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.
- Nhóm NHTM cổ phần theo quy mô vốn:
+Vốn điều lệ trên 10.000 tỷ VND như MB vốn điều lệ 11.594 tỷ VND, Sài Gòn vốn điều lệ 14.295 tỷ VND, Sacombank vốn điều lệ 12.425 tỷ VND, Eximbank vốn điều lệ 12.355 tỷ VND.
+ Vốn điều lệ 5000 tỷ-10000 tỷ VND (11 ngân hàng) : VPbank vốn điều lệ 8056,5 tỷ VND, Tienphongbank vốn điều lệ 5550 tỷ VND, SHB vốn điều lệ 8866 tỷ VND, HDbank vốn điều lệ 8100 tỷ VND, Techcombank vốn điều lệ 8878 tỷ VND, MaritimeBank vốn điều lệ vốn điều lệ 8000 tỷ VND, SeAbank vốn điều lệ 5466 tỷ VND, Đông Á vốn điều lệ 5000 tỷ VND, Pvcombank vốn điều lệ 9000 tỷ VND, Bưu điệnLienviet bank vốn điều lệ 6460 tỷ VND, ACB vốn điều lệ 9377 tỷ VND.
+ Vốn điều lệ < 5000 tỷ VND: Các NHTM còn lại (15 NH).
Đối với các NHTM cổ phần, tùy thuộc vào tình hình tài chính và kết quả kinh doanh, NHNN có những biện pháp thích ứng trong quá trình tái cơ cấu một cách phù hợp, ví dụ hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM thiếu thanh khoản tạm thời, thực hiện M&A hoặc đưa vào diện kiểm soát đặc biệt.
- Nhóm NHTM có sở hữu nước ngoài: trong 4 NHTM có yếu tố nhà nước thì Vietinbank và Vietcombank đã bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước, nhưng tỷ lệ này chưa cao (đến 31/12/2014, tỷ lệ sở hữu nhà nước tại Vietcombank là hơn 77% và Vietinbank là hơn 64%, có nghĩa là tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại Vietcombank là khoảng 20% và tại Vietinbank khoảng 30%), BIDV và Agribank có tỷ lệ sở hữu nhà nước lần lượt là 95% và 100% và chưa có sở hữu nước ngoài.
Thứ hai, Quản lý vốn cấp 2. Trong khi vốn điều lệ là vốn cứng và thực có của NHTM, vốn cấp 2 hàm chứa nhiều rủi ro. Tuy nhiên ở Việt Nam, do các công cụ tài chính như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi, chênh lệch từ đánh giá lại tài sản… rất ít trong danh mục tài sản nợ được NHNN chấp thuận. Thành phần vốn chủ sở hữu để NHNN tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chủ yếu là vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Đây là điều kiện thuận lợi để các NHTM Việt Nam nhanh chóng tiếp cận các yêu cầu của Basel 2.
Thứ ba, về hoạt động kế toán, nếu NHTM Việt Nam thực hiện theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì các sai lệch trên bảng cân đối kế toán đang được thực hiện theo chuẩn mực kế toán Việt Nam sẽ là cao hơn. Sự khác biệt này là khác nhau ở từng NHTM cụ thể. Mặc khác, vẫn xảy ra tình trạng vốn chủ sở hữu “ảo” khi không trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ hoặc không thực hiện đầy đủ nội dung chuẩn mực kế toán “hợp nhất kinh doanh” khi sáp nhập, hợp nhất ngân hàng. Tình trạng lãi giả lỗ thật, kinh doanh bị lỗ nhưng NHTM vẫn chia cổ tức xảy ra không phải là ít tại nhiều NHTM. Hoặc khi hợp nhất NHTM, vốn ảo xuất hiện khi tính toán tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu cũ và mới vào thời điểm hợp nhất ngân hàng. Những hiện tượng này dần được khắc phục thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật về trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo Thông tư 36/2013/TT-NHNN và thực tế hoạt động của NHTM mới sau khi hợp nhất.
Thứ tư, quản lý vốn góp của cổ đông tại NHTM cổ phần. Những năm qua, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, các NHTM cổ phần Việt Nam đã có những thành công vượt bậc để gia tăng vốn chủ sở hữu theo yêu cầu của NHNN. Bên cạnh đó, các cổ đông lớn và cổ đông tổ chức đã có những thủ thuật lòng vòng để đảm bảo tỷ lệ góp vốn, tránh pha loãng cổ phiếu thông qua thành lập công ty con, sở hữu chéo… gây ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Việc siết chặt kỷ luật tài chính, kiên quyết đưa ra xử lý các tổ chức và cá nhân vi phạm quy định nhà nước, ban hành và thực hiện các văn bản mới đã góp phần giải quyết thực trạng này, đem lại niềm tin cho công chúng vào năng lực quản lý của NHNN.
2.2.2.2. Quy định công khai, minh bạch thông tin
Ở các quốc gia, tính chính xác, kịp thời, minh bạch của thông tin do NHTW công bố có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống. IMF công bố Bộ chỉ số
lành mạnh tài chính – FSIs gồm 40 chỉ số. Ngân hàng thanh toán quốc tế (IBS) công bố yêu cầu về công bố thông tin cho các ngân hàng riêng lẻ theo khung của Basel. Hiện nay có khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đang công bố Bộ chỉ số lành mạnh tài chính với định kỳ quý, 6 tháng và năm trên website của IMF và của từng NHTW.
Theo trụ cột thứ 3 của Basel 2, NHNN đã ban hành Thông tư số 48/2014/TT- NHNN ngày 31/12/2014 quy định việc phát ngôn và cung cấp thông tin của NHNN Việt Nam. Nội dung thông tin phát ngôn và cung cấp cho báo chí bao gồm:
- Chủ trương, chính sách, pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng).
- Quyết định điều hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (sau đây gọi là Thống đốc) về tiền tệ và ngân hàng.
- Tình hình diễn biến về tiền tệ và ngân hàng.
- Thông báo liên quan đến việc thành lập, mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, giải thể, thu hồi giấy phép, chấp thuận mở rộng mạng lưới tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
Danh sách thông tin công bố đã bổ sung 39 loại thông tin thuộc các nhóm trên. Tuy nhiên, nếu xét theo trụ cột thứ 3 của hiệp ước Basel 2 trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng, các ngân hàng phải công khai về cơ cấu vốn tự có, mức độ rủi ro hoạt động, chính sách quản lý rủi ro, các biện pháp hạn chế rủi ro,…
Trong thời gian qua, NHNN đã rất chú trọng vào công tác công bố thông tin. Không chỉ có công bố thông tin về mặt nội dung, NHNN rất chú trọng vào tần suất, thời lượng, thời điểm công bố thông tin. Thẩm quyền công bố thông tin của NHNN được mở rộng và phân cấp cụ thể hơn, tạo điều kiện cho NHNN chủ động và linh hoạt hơn trong quản lý điều hành, tuyên truyền, phổ biến, giải thích đường lối, quan điểm của cơ quan điều hành. Qua đó, dư luận trong và ngoài nước đã có những đánh giá cao đối với hoạt động truyền thông của NHNN.
2.2.2.3. Quy định thanh tra, giám sát vốn chủ sở hữu các ngân hàng thương mại
Năm 1997, ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đã ban hành các nguyên tắc cơ bản nhằm giám sát ngân hàng hiệu quả. Theo đó, cơ quan giám sát ngân hàng phải có mục tiệu và trách nhiệm rõ ràng, độc lập trong hoạt động chức năng và có đủ các nguồn lực cần thiết. Cơ quan giám sát có quyền hạn giải quyết mọi vấn đề nảy sinh nhằm đảm bảo an toàn và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng; kiểm soát hoạt động ngân hàng thông qua kiểm soát việc cấp phép tham gia hoạt động ngân hàng; có khả năng hạn chế hoạt động mua lại ngân hàng và kiểm soát sự chuyển giao quyền sở hữu ngân hàng. Ngoài ra, cần có sự phối kết hợp của các cơ quan giám sát các nước để thực hiện hoạt động giám sát tổng thể trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, để thiết lập hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả giám sát ngân hàng, NHNN cần tuân thủ các nguyên tắc giám sát ngân hàng của BIS [3].
Trong hoạt động quản lý của NHNN Việt Nam, bên cạnh ban hành các chính sách về vốn chủ sở hữu thì hoạt động thanh tra, giám sát mức vốn, cơ cấu vốn, các tỷ lệ an toàn liên quan tới vốn chủ sở hữu có vai trò quyết định hiệu lực quản lý.
Để đánh giá việc giám sát, kiểm tra của NHNN đối với các ngân hàng thương mại trong việc đảm bảo an toàn vốn chủ sở hữu, luận án sẽ căn cứ theo mức độ tuân thủ 29 nguyên tắc cốt lõi trong giám sát ngân hàng do Ủy Ban Basel ban hành theo ba mức độ: đã đáp ứng, đang triển khai và chưa đáp ứng (Phụ lục 4)[43].
Các nguyên tắc đã đáp ứng
Nguyên tắc 5: Các tiêu chí cấp phép
NHNN ban hành Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 quy định về việc cấp giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Ngoài ra, quy định mức vốn pháp định của TCTD được quy định trong Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 và Nghị định số 10/2011/NĐ-CP ngày 26/01/2011 bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP.
Nguyên tắc 6: Chuyển đổi quyền sở hữu
NHNN hướng dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi Giấy phép, Điều lệ của ngân hàng thương mại quy định trong Thông tư số 06/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010.
Nguyên tắc 7: Các hoạt động mua bán lại
NHNN ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Hiện nay, NHNN đang hướng dẫn thủ tục triển khai mua lại, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tín dụng gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 06/3/2014 của Chính phủ và Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg ngày 15/9/2014 của Thủ Tướng Chính phủ. Ngày 08/12/2014, Thông tư số 38/2014/TT-NHNN quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam.
Nguyên tắc 16: An toàn vốn tối thiểu
NHNN ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9%, các ngân hàng duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất. Sau khi cân nhắc các ý kiến liên quan đến quy định tại Thông tư số 13, ngày 27/9/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13. Liên quan đến các Thông tư này, ngày 30/8/2011, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Thông tư số 22/2011/TT-NHNN (gọi tắt là Thông tư 22). Theo đó, NHNN chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 19. Bên cạnh đó, Thông tư 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Do một số bất cập, hạn chế của Thông tư 13, ngày 20/11/2014, NHNN đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN thay thế Thông tư 13 quy định những chuẩn mực về quản trị, an toàn hoạt động ngân hàng mới phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Nguyên tắc 19: Giới hạn tín dụng với khách hàng
Hạn chế, giới hạn cấp tín dụng quy định trong Thông tư 36/2014/TT-NHNN có một số nội dung đáng lưu ý: NHTM không được cấp tín dụng không có bảo đảm,
cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho cổ đông lớn, cổ đông sáng lập, kế toán trưởng, các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát. Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nguyên tắc 29: Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ tài chính
Căn cứ Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, NHNN đã ban hành Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền và Thông tư số 31/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 35/2013/TT-NHNN. Theo đó, tăng cường đánh giá đối với khách hàng có rủi ro cao. Bên cạnh đó, phải giám sát các giao dịch của khách hàng để đảm bảo giao dịch của khách hàng phù hợp với bản chất, mục đích thiết lập mối quan hệ và hoạt động của khách hàng; kịp thời phát hiện các giao dịch bất thường và xem xét báo cáo giao dịch đáng ngờ khi có đủ cơ sở hợp lý theo quy định của pháp luật, tổ chức tài chính được phép thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, quốc tế phải báo cáo Cục Phòng, chống rửa tiền từng giao dịch chuyển tiền điện tử trong nước có mức giá trị từ 500 triệu đồng trở lên hoặc ngoại tệ có giá trị tương đương và giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế ra vào Việt Nam có mức giá trị từ 1.000 đô la Mỹ trở lên hoặc bằng ngoại tệ khác có giá trị tương đương.
Các nguyên tắc đang triển khai
Nguyên tắc 1: Trách nhiệm, mục tiêu và quyền hạn
Nguyên tắc này hiện đang triển khai. Các văn bản có liên quan gồm: Luật NHNN 2010, Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Luật thanh tra 56/2010/QH12 và nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số