Kinh Nghiệm Của Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore



nhằm đưa ra kế hoạch tổng thể và điều phối việc thực hiện Basel 2 trong ngân hàng. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm rà soát và thông qua kế hoạch thực hiện và giám sát tiến độ chuẩn bị.

- Xây dựng kế hoạch khả thi để thực hiện Basel 2. Để áp dụng được phương pháp IRB với rủi ro tín dụng và phương pháp mô hình nội bộ đối với rủi ro thị trường yêu cầu các ngân hàng phải hoàn thiện nghiệp vụ đo lường và quản lý rủi ro. Việc này được tiến hành từng bước một thông qua việc xây dựng kế hoạch phù hợp với “Hướng dẫn về việc thực hiện Hiệp ước vốn mới trong lĩnh vực ngân hàng và các yêu cầu của Basel 2”. Kế hoạch thực hiện bao gồm: phương pháp tính vốn cho rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động; các đề án và nội dung có liên quan, mục tiêu, thời gian thực hiện và ưu tiên trong từng giai đoạn; nguồn lực hỗ trợ cho quá trình thực hiện.

- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dữ liệu và hệ thống xử lý dữ liệu liên quan cũng như các chính sách về dữ liệu hoàn thiện, chặt chẽ và thống nhất phù hợp với các yêu cầu của Basel 2 để đảm bảo tính kịp thời, chính xác và thống nhất của dữ liệu.

- Thúc đẩy sự phát triển hệ thống xếp hạng nội bộ và mô hình đo lường rủi ro. Hệ thống xếp hạng nội bộ phải được xây dựng dựa trên quy mô, cơ cấu, tiêu chuẩn và phương pháp theo quy định của Basel 2. Đồng thời các ngân hàng phải xây dựng mô hình đo lường rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường cho danh mục tài sản của mình.

Về phía Ủy ban Giám sát ngân hàng Trung Quốc, cần thực hiện các biện pháp sau:

- Tăng cường giám sát công tác chuẩn bị. CBRC phải tăng cường hoàn thiện cơ chế làm việc và cung cấp cho các ngân hàng những hướng dẫn về việc chuẩn bị. Bên cạnh đó, CBRC chịu trách nhiệm giám sát quá trình chuẩn bị của các ngân hàng, từ đó tính đến những tác động tích cực của việc thực hiện Basel 2 nhằm tạo cơ chế khích lệ từ phía cơ quan giám sát trong việc thúc đẩy việc áp dụng Basel 2.

- Tạo sự liên kết và hợp tác nhằm giảm thiểu chi phí cho việc thực hiện. Do sự phức tạp trong việc áp dụng Basel 2, CBRC vừa tăng cường chia sẻ thông tin với các ngân hàng vừa khuyến khích các ngân hàng hợp tác lại với nhau. Trước tiên,


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.


CBRC chịu trách nhiệm tổ chức các buổi gặp với các ngân hàng và các cơ quan giám sát có trình độ phát triển cao của nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm thực hiện Basel 2. Ngoài ra, CBRC tổ chức các khóa đào tạo và hội thảo về Basel 2. Hơn nữa, CBRC phải tăng cường tính minh bạch trong quy trình ra quyết định, mở rộng sự tham gia của các ngân hàng và cung cấp hướng dẫn rõ ràng cho các ngân hàng để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro.

1.2.4.3. Kinh nghiệm của Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore

Singapore là một trong những nền kinh tế mới nổi trên thế giới. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính đã kéo theo hệ thống ngân hàng cũng phát triển không chỉ hoạt động trong nước mà còn vươn ra quốc tế. Tuy nhiên, cũng giống với các nước khác, hệ thống ngân hàng của Singapore cũng đứng trước những thách thức về vấn đề an toàn vốn và phòng ngừa, quản trị rủi ro đối với hoạt động của mình. Do đó, trong luật Ngân hàng Singapore (sửa đổi năm 2003) đã quy định mức an toàn vốn tối thiểu đối với một ngân hàng hợp nhất là 12%. Ngay từ khi Basel 2 ra đời vào năm 2004, cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) đã xúc tiến ngay các bước để sớm thực hiện Basel 2 với mục tiêu sẽ áp dụng Basel 2 cùng thời điểm với các nước G10. MAS cho rằng Basel 2 sẽ cải thiện tình hình quản trị rủi ro cũng như đáp ứng được mục tiêu giám sát của MAS. Hiện nay, Singapore đã áp dụng thành công Basel 2 trong việc đảm bảo an toàn vốn và quản lý rủi ro và đang tiến hành lộ trình áp dụng Basel 3. Chính vì vậy, luận án đề cập tới Singapore như một ví dụ của việc thực hiện thành công Basel 2 thông qua phân tích kinh nghiệm triển khai tại quốc gia này [7], [43].

Lộ trình và cách thức triển khai áp dụng Basel 2 tại Singapore:

- Giai đoạn tháng 7/2004 - 9/2007, MAS đã gửi tới các ngân hàng và công bố trên website để lấy ý kiến các hướng dẫn về phương pháp IRB và các đề xuất liên quan đến việc thực hiện Basel 2. Trên cơ sở đó, đề xuất chia quá trình thực hiện Basel 2 làm 6 giai đoạn: 8/2005, 3/2006, 6/2006, 11/2006, 5/2007 và 9/2007. Các giai đoạn 2, 3 và 5 tập trung vào rủi ro tín dụng và phương pháp IRB.

- MAS thành lập nhóm công tác cục bộ để xây dựng các yêu cầu về công bố



thông tin và hệ thống cảnh báo Basel 2.

- Song song với thành lập nhóm công tác, MAS tiến hành thanh tra tại chỗ các ngân hàng để đánh giá mức độ sẵn sàng của các ngân hàng đối với việc áp dụng phương pháp quản trị rủi ro thông qua tập trung vào hệ thống giám sát và kiểm soát của ngân hàng cũng như các quy trình, thủ tục nội bộ.

- MAS khuyến khích các ngân hàng áp dụng phương pháp phù hợp nhất với trạng thái rủi ro của mình. Nhưng đồng thời khuyến nghị các ngân hàng áp dụng phương pháp IRB nâng cao đối với rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

- MAS tích cực hỗ trợ sáng kiến cộng đồng các cơ quan thanh tra, giám sát nhằm thúc đẩy sự liên hệ và hợp tác trong việc thực hiện Basel 2. Ngoài ra, MAS cử các cán bộ tham gia khóa học về thanh tra, giám sát do cơ quan giám sát nước ngoài tổ chức.

- Ngày 14/12/2007, MAS ban hành các quy định về các yêu cầu an toàn vốn trên cơ sở rủi ro đối với các ngân hàng hợp nhất tại Singapore có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2008.

Có thể thấy, việc áp dụng Hiệp ước Basel 2 có rất nhiều lợi ích nhưng cũng có nhiều hiệu ứng tiêu cực có thể xảy ra trong giai đoạn đầu áp dụng. Nếu chất lượng tài sản của ngân hàng có liên hệ mật thiết với chu kỳ kinh doanh thì việc tăng độ nhảy cảm của rủi ro có thể tạo ra hiệu ứng phản ứng theo chu kỳ này. Dẫn đến việc áp dụng Basel 2 trở nên phản tác dụng khi không đạt được mục đích tăng cường tính ổn định của hệ thống tài chính.

1.2.4.4. Bài học kinh nghiệm về quản lý vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thông qua phân tích kinh nghiệm của NHTW trong việc quản lý vốn chủ sở hữu các NHTM tại ba nước Mỹ, Trung Quốc và Singapore theo Basel 2, luận án rút ra một số bài học về quản lý vốn chủ sở hữu của các NHTM tại NHNN Việt Nam như sau:

Thứ nhất, Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng quốc gia với cơ quan giám sát ngân hàng quốc gia chịu trách nhiệm chính. Có thể thấy, tại Trung Quốc và Singapore, cơ quan này đã hoạt động rất hiệu quả trong việc điều phối, hướng dẫn,



giám sát an toàn vốn theo Basel 2. Cơ quan giám sát ngân hàng quốc gia có trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn vốn và phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng thông qua việc định hướng, tổ chức, xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện Basel 2 đồng thời giám sát, đánh giá, hỗ trợ các ngân hàng ngay từ công tác chuẩn bị cho đến khi chính thức áp dụng Basel 2. Ngoài ra, cần xây dựng mô hình giám sát tối ưu, nâng cao năng lực đội ngũ thanh tra – giám sát, hoàn thiện các công cụ giám sát và kỹ thuật giám sát, đặc biệt là việc phát triển các mô hình cảnh báo sớm nguy cơ rủi ro có thể xảy ra.

Thứ hai, Đảm bảo mức độ sẵn sàng về khuôn khổ pháp lý, chuẩn mực kế toán, hệ thống hướng dẫn triển khai các phương pháp đo lường hiện đại như IRB, IRB nâng cao, AMA,… Các quy định về pháp lý này phải phù hợp với điều kiện hệ thống ngân hàng trong nước nhưng cần có sự phân cấp rõ ràng về đối tượng áp dung, phạm vi điều chỉnh. Từ kinh nghiệm của Singapore, các quy định pháp lý cần được công khai lấy ý kiến của các ngân hàng thương mại, các thành phần trong nền kinh tế có liên quan trực tiếp tới hệ thống ngân hàng. Điều này giúp tăng cường sự minh bạch trong quá trình ra quyết định của cơ quan giám sát ngân hàng.

Thứ ba, Xây dựng một lộ trình áp dụng Basel 2 phù hợp với năng lực, đặc thù của các NHTM cũng như nền kinh tế. Theo đó, có thể áp dụng kinh nghiệm của Mỹ và Trung Quốc trong việc phân chia việc áp dụng Basel 2 theo từng nhóm ngân hàng. Tại Việt Nam, NHNN cũng có thể phân chia các ngân hàng thương mại theo quy mô vốn và phạm vi hoạt động. Theo đó, chia ra làm 3 nhóm: Nhóm 1: các ngân hàng thương mại có quy mô vốn lớn hoạt động trên phạm vi quốc tế; Nhóm 2: các ngân hàng thương mại có quy mô vốn lớn hoạt động trên phạm vi quốc gia và Nhóm 3: các ngân hàng thương mại có quy mô vốn vừa và nhỏ. Các phương pháp quản trị rủi ro hiện đại như IRB, AMA sẽ được áp dụng trước đối với các ngân hàng thuộc nhóm 1, hai nhóm còn lại vẫn hoạt động theo Basel 1. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thuộc nhóm 1 nhưng chưa đủ điều kiện để áp dụng Basel 2 thì có thể hoãn thực hiện nhưng không quá 3 năm và phải tuân theo quy định đảm bảo an toàn vốn



của NHNN. Các ngân hàng thuộc nhóm 2 hoặc 3 khi phát triển đến một mức độ

nhất định sẽ áp dụng Basel 2.

Mặt khác, cơ quan giám sát cần đặt khuôn khổ về thời gian hoàn thành việc triển khai Basel 2 tính từ lúc bắt đầu là khoảng 4-5 năm và có các giai đoạn rõ ràng. Mục đích của việc này là thực hiện dần dần giúp các ngân hàng thương mại có thể thay đổi văn hóa quản trị rủi ro (chuyển từ văn hóa các quyết định tín dụng dựa trên quan hệ sang các tiêu chí đánh giá khách quan như sử dụng mô hình xếp hạng tín dụng, các nguyên tắc quản trị rủi ro,…) của mình, tránh gây mâu thuẫn trong việc quản trị rủi ro đồng thời có thể rút ra kinh nghiệm cho các bước tiếp theo. Ngoài ra, cơ quan giám sát cần đặt ra mục tiêu cho từng giai đoạn về tỷ lệ phần trăm tài sản được áp dụng để tính theo các phương pháp đo lường rủi ro của Basel 2 cho từng loại rủi ro. Hiện nay, các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển đều tiếp cận ban đầu là áp dụng tối thiểu phương pháp SA đối với rủi ro tín dụng, phương pháp BIA đối với rủi ro hoạt động.

Thứ tư, Công tác chuẩn bị trước khi áp dụng Basel 2 cần được đặc biệt quan tâm. Bởi chất lượng của giai đoạn chuẩn bị đối với các ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí đầu tư về công nghệ thông tin, hệ thống quản trị và thời gian triển khai Basel 2. Do đó, các ngân hàng cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về các nội dung sau:

- Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ, việc áp dụng các phương pháp như IRB, AMA đòi hỏi ở ngân hàng sự thay đổi mạnh mẽ hệ thống đo lường và kiểm soát rủi ro hiện tại. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu về đo lường và kiểm soát rủi ro dẫn đến việc thực hiện Basel 2 bị hoãn lại.

- Giải quyết vấn đề dữ liệu, tính đồng bộ và chính xác của dữ liệu là thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng kể cả ngân hàng quy mô lớn. Giai đoạn chuẩn bị dữ liệu nếu không được thực hiện tốt có thể làm các ngân hàng phải trả giá mất nhiều năm để có thể áp dụng được IRB.

- Đầu tư về công nghệ thông tin, đây là một khoản đầu tư có chi phí rất cao. Để

áp dụng được các phương pháp nâng cao, bên cạnh dữ liệu chính xác cần các công cụ,



máy móc, phần mềm hiện đại để tổng hợp, xử lý, phân tích xu hướng, xác định rủi ro.

- Xây dựng đội ngũ chuyên gia ngành ngân hàng. Việc chuẩn bị đội ngũ chuyên gia mạnh, nắm vững các vấn đề của Basel 2 là hết sức cần thiết để có thể áp dụng được Hiệp ước này.

Thứ năm, Tăng cường sự liên kết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại để giảm thiểu chi phí. NHTW, cơ quan giám sát ngân hàng tạo điều kiện tổ chức các buổi gặp với các ngân hàng và các cơ quan giám sát có trình độ phát triển cao của nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm thực hiện Basel 2. Ngoài ra, tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho các ngân hàng về pháp lý, về cách thức triển khai đồng thời tiếp thu ý kiến của các ngân hàng về các vấn đề cần tháo gỡ trong quá trình triển khai.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận án hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hệ thống ngân hàng, ngân hàng thương mại và vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại. Quản lý của NHTW đối với vốn chủ sở hữu của NHTM được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng luận án tập trung phân tích vốn chủ sở hữu dưới góc độ quản lý của ngân hàng trung ương. Luận án đã làm rõ vai trò của vốn chủ sở hữu, từ đó hệ thống hóa và làm rõ các yêu cầu, mục tiêu cũng như cơ chế quản lý của NHTW đối với vốn chủ sở hữu của NHTM theo nguyên tắc Basel 2 của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng và thông lệ quốc tế. Các nội dung quản lý và cơ chế giám sát cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý của NHTW với vốn chủ sở hữu của NHTM. Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý vốn chủ sở hữu của NHTW theo Basel 2 tại các nước Mỹ, Trung Quốc và Singapore, rút ra một số bài học về nâng cao hiệu quả quản lý vốn chủ sở hữu của các NHTM tại NHNN Việt Nam.



Chương 2‌

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM‌


2.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay được thành lập ngày 6/5/1951 theo sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng, đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp. Những năm 1954-1986, ngành ngân hàng hoạt động theo mô hình một cấp, Ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa thực hiện chức năng quản lý vừa thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Tháng 5/1990, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành. Điều này đánh dấu chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng trung ương. Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật đồng thời khẳng định tính đa hình thức sở hữu, đa loại hình, đa thành phần và kinh doanh đa năng của hệ thống ngân hàng thương mại. Điều này đã mở đường cho quá trình phát triển các loại hình ngân hàng tại Việt Nam bao gồm: ngân hàng quốc doanh, ngân hàng TMCP, ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam [29].

Để đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống tài chính ở Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng (2006, 2010), tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các ngân hàng.

Quy mô tổng tài sản có toàn hệ thống tính đến 31/12/2015 tiếp tục tăng trưởng đáng kể với 12,35% so với năm 2014, đạt hơn 7.319 nghìn tỷ đồng; trong đó



hai khối ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn nhất, tương ứng 3.303,9 nghìn tỷ đồng và 2.928 nghìn tỷ đồng. Các chỉ tiêu an toàn, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) bình quân hệ thống tiếp tục duy trì ở mức cao với 13%; tổng quy mô vốn điều lệ tăng 5,65% so với năm 2014, đạt khoảng 460 nghìn tỷ đồng.

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang đóng vai trò trọng yếu trong hệ thống các tổ chức tín dụng, bao gồm các NHTM quốc doanh và các NHTM cổ phần, với sự không ngừng mở rộng về số lượng, quy mô hoạt động, phát triển vượt bậc cả về lượng và chất và đa dạng về hình thức sở hữu. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.

Hình 2.1: Số lượng các ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2005-2015


Nguồn Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Trong giai đoạn 2005 2011 hệ 1

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước

Trong giai đoạn 2005 - 2011, hệ thống ngân hàng và các TCTD ở nước ta đã phát triển mạnh về lượng (năm 2011 tăng khoảng 40% so với năm 2005). Đặc biệt, số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng 82% và có thêm 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Từ năm 2012 đến nay, số lượng NHTM có xu hướng giảm do thực hiện đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015 được Chính phủ duyệt. Hệ thống quản lý rủi ro và kỹ năng quản lý hoạt động ngân hàng còn tương đối kém, gây tác động không tốt đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Do đó, NHNN đã khẩn trương chỉ đạo các TCTD rà soát cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí