Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 14



điều của luật thanh tra. Thực tế, quyền hạn kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống ngân hàng và kiểm tra khi có nghi vấn về tính an toàn chưa được đảm bảo. Nội dung giám sát chưa được tổng hợp và đánh giá tổng thể đối với toàn hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chức năng giám sát giao cho nhiều cơ quan nhưng thiếu sự phối kết hợp, trao đổi thông tin và chia sẻ tình hình. Như vậy, Việt Nam cần triển khai rất nhiều việc để tuân thủ đầy đủ nguyên tắc này.

Nguyên tắc 2: Độc lập, trách nhiệm, nguồn lực và bảo vệ pháp lý cho thanh tra viên [35]

Ngày 7/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 26/2014/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành ngân hàng thay thế cho Nghị định 91/1999/NĐ-CP, trong đó có một điểm mới là quy định rõ ràng về nhiệm vụ và quyền hạn đội ngũ thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra - thành phần hết sức quan trọng trong công tác thanh tra, giám sát vốn phức tạp, nặng nề và nhạy cảm trong nhiều trường hợp. Với việc quy định riêng về chế độ trưng tập các cộng tác viên thanh tra, cơ quan thanh tra, giám sát có thể tận dụng năng lực của các chuyên gia thuộc các đơn vị khác, đặc biệt khi công việc có tính chuyên môn kỹ thuật sâu và phát sinh nhiều trong những thời điểm cụ thể. Tuy nhiên, NHNN cần xem xét xây dựng một chế độ bảo vệ và đãi ngộ cho đội ngũ thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra để phát huy tốt tiềm năng, giảm nguy cơ rủi ro về đạo đức, nghề nghiệp trong công việc.

Nguyên tắc 4: Các hoạt động được phép

Theo quy định hiện hành, các NHTM chỉ thực hiện các dịch vụ ghi trong giấy phép thành lập và hoạt động, NHNN chưa quy định một danh sách cụ thể các hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, với các hoạt động phổ biến NHTM thực hiện, NHNN ban hành các văn bản quy phạm liên quan trực tiếp điều chỉnh.

Nguyên tắc 9: Kỹ thuật và công cụ giám sát

NHNN tăng cường thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về an toàn tín dụng. Tuy nhiên, quy trình


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.


giám sát của NHNN chưa tạo được sự phối hợp tốt giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Các bước trong quy trình vẫn chú trọng đến hoạt động thanh tra tại chỗ và cụ thể đối với các NHTM mà chưa xây dựng được các báo cáo tổng thể mang tính cảnh báo trong hoạt động của NHTM. Giám sát từ xa còn khó khăn trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng rộng rãi, nhất quán và thiếu hiệu lực cao.

Quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 14

Một số công cụ giám sát mà NHNN đã sử dụng như: phân tích các báo cáo tài chính và các tài khoản; phân tích mô hình kinh doanh; đánh giá về kết quả của cuộc kiểm tra được thực hiện bởi các ngân hàng và phân tích quản trị doanh nghiệp, bao gồm cả quản lý rủi ro và hệ thống kiểm soát nội bộ.

Nguyên tắc 10: Báo cáo giám sát

Để triển khai nguyên tắc này, NHNN đã ban hành Thông tư số 21/2010/TT- NHNN ngày 08/10/2010 quy định báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị thuộc NHNN và các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, kịp thời, hệ thống và đảm bảo chất lượng.

Nguyên tắc 14: Quản trị doanh nghiệp trong ngân hàng

Với nguyên tắc này, trong Thông tư số 40/2011/TT-NHNN quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam có đề cập đến quyền hạn và trách nhiệm của chủ ngân hàng, ban điều hành. Xét trên khía cạnh doanh nghiệp, các ngân hàng chịu sự chi phối của luật doanh nghiệp 2005 và luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Tuy nhiên, chưa có văn bản quy định cụ thể về quản trị doanh nghiệp trong ngân hàng, các ngân hàng tự đề ra cách thức quản trị.

Nguyên tắc 15: Quy trình quản lý rủi ro

Hiện nay, NHNN đã ban hành quy định về đánh giá rủi ro nhưng chưa quy định cụ thể mô hình quản lý rủi ro. Mặt khác, NHNN mới trực tiếp quản lý, theo dõi rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản còn các rủi ro khác chưa có quy định rõ ràng.



Bên cạnh đó, quy mô và độ phức tạp của các ngân hàng dẫn đến chưa có hệ thống

đánh giá tín dụng nội bộ nên gây khó khăn cho việc trích lập dự phòng tương xứng.

Nguyên tắc 17: Rủi ro tín dụng

Với nguyên tắc này, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 về việc phân loại tài sản Có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, ngày 18/03/2014 NHNN ban hành Thông tư số 09/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, hoãn ngày hiệu lực thi hành Thông tư 02 đến ngày 1/6/2014. Trước Thông tư 02, NHNN đã ban hành Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung Quyết định 493 nhưng việc thi hành của các ngân hàng chưa mang lại hiệu quả dẫn đến nợ xấu tăng cao trong thời gian qua.

Nguyên tắc 18: Các tài sản có vấn đề, dự trữ và dự phòng

Cùng với việc phân loại nợ, NHNN quy định về trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong Thông tư 02/2013/TT-NHNN. Tuy nhiên việc các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro chính xác và xác định đầy đủ mức dự phòng thì chưa có thông tin đánh giá. Ngày 6/6/2014, NHNN đã ban hành Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- NHNN-BTP-BTNMT hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm để giải quyết vấn đề nợ xấu.

Nguyên tắc 20: Nguy cơ rủi ro với các bên liên quan

Tuy NHNN có quy định trong Thông tư số 13/2010/TT-NHNN về xác định một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan nhưng việc xác định này sẽ do các ngân hàng tự xác định với tiêu chí của từng ngân hàng và báo cáo cho NHNN.

Nguyên tắc 24: Rủi ro thanh khoản

Với rủi ro thanh khoản, NHNN đã có văn bản quy định về tỷ lệ khả năng chi trả (thanh khoản) tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và nợ phải trả. Tuy nhiên, các ngân hàng có xây dựng chính sách và quy trình quản lý rủi ro để nhận dạng, đánh giá và giảm thiểu rủi ro thanh khoản hay không thì NHNN chưa đảm bảo được.



Nguyên tắc 26: Kiểm tra và kiểm toán nội bộ

NHNN ban hành Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay, các NHTM đều có hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ nhưng chất lượng hoạt động, cách thức thực hiện và kết quả kiểm toán nội bộ có phản ánh đúng thực trạng ngân hàng và góp phần vào công tác quản lý rủi ro cho mỗi ngân hàng thì chưa có cơ sở để đánh giá.

Nguyên tắc 27: Báo cáo tài chính và kiểm toán bên ngoài

Với nguyên tắc trên, NHNN ban hành Thông tư số 39/2011/TT-NHNN quy định về kiểm toán độc lập đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước yêu cầu tổ chức tín dụng sử dụng một hoặc một số dịch vụ kiểm toán độc lập khi xét thấy cần thiết trong các trường hợp sau: tổ chức tín dụng có nguy cơ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; tổ chức tín dụng được xem xét để chấm dứt thời hạn kiểm soát đặc biệt. Ngoài ra, việc kiểm toán báo cáo tài chính bán niên, báo cáo quyết toán dự án hoàn thành và các công việc kiểm toán khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (nếu có) thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, hiện việc ghi nhận trong công tác kế toán của các TCTD chưa thực sự phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều này dẫn tới việc giám sát trên các khía cạnh vốn, dự phòng, tỷ lệ an toàn, thu chi tiền mặt có sự khác biệt so với chuẩn mực quốc tế.

Nguyên tắc 28: Công khai và minh bạch

Với nguyên tắc này, NHNN ban hành Thông tư số 48/2014/TT-NHNN ngày 31/12/2014 quy định việc phát ngôn và cung cấp thông tin của NHNN Việt Nam, trong đó công bố 39 loại thông tin liên quan đến hoạt động tài chính ngân hàng. Nguyên tắc này đang trong giai đoạn đầu của quá trình áp dụng.

Các nguyên tắc chưa đáp ứng:

- Nguyên tắc 3: Hợp tác và cộng tác

- Nguyên tắc 8: Phương pháp giám sát

- Nguyên tắc 11: Quyền hạn khắc phục và xử lý vi phạm của cơ quan giám sát



- Nguyên tắc 12: Giám sát tổng thể

- Nguyên tắc 13: Mối quan hệ giám sát trong và ngoài nước

- Nguyên tắc 21: Rủi ro chuyển đổi và rủi ro chính trị

- Nguyên tắc 22: Rủi ro thị trường

- Nguyên tắc 23: Rủi ro lãi suất trong ghi sổ của ngân hàng

- Nguyên tắc 25: Rủi ro hoạt động

Trên đây là những nguyên tắc NHNN chưa đáp ứng được. Bởi để thực hiện những nguyên tắc này đòi hỏi các NHTM phải có nguồn lực lớn để thực thi các quy định. Bên cạnh đó, hệ thống luật liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát của Việt Nam hiện chưa đề cập các vấn đề liên quan đến các nguyên tắc trên đồng thời năng lực và công cụ đo lường, giám sát rủi ro còn hạn chế nên chưa thể thực hiện được.

Tóm lại, trong số 29 nguyên tắc Basel về giám sát ngân hàng, NHNN phần lớn đang triển khai hoặc chưa đáp ứng. Đây là điểm đáng lưu ý, đặc biệt trong giai đoạn Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.

Khi chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng, hệ thống các TCTD có bước phát triển rất nhanh về quy mô và phạm vi hoạt động, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường tài chính phi ngân hàng (chứng khoán và bảo hiểm) có sức hấp dẫn cao, các TCTD có xu hướng thâm nhập sâu rộng hơn vào hoạt động này. Vì vậy, rủi ro đối với các TCTD trở nên đa dạng hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng đồng hành cùng với các loại tội phạm mới xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro về tác nghiệp và công nghệ trong điều kiện hệ thống quản trị, điều hành kinh doanh của các TCTD còn những yếu kém đang là nỗi lo lớn của các nhà quản lý ngân hàng. Hiện nay, việc chấp thuận và áp dụng các chuẩn mực của Basel về giám sát hoạt động ngân hàng được khuyến khích đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Việc sử dụng các chuẩn mực này sẽ giúp các nước thúc đẩy tổ chức thanh tra nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế vĩ mô và sự ổn định tài chính.

Quá trình thanh tra, giám sát ngân hàng theo CAMELS, không chỉ là hoạt

động riêng lẻ của giám sát từ xa hay thanh tra tại chỗ, mà đòi hỏi có sự kết hợp giữa



hai bộ phận với nhau mới có thể đánh giá được toàn diện về TCTD; sự kết hợp đó phải được thiết lập thành quy trình và trở thành kỹ năng thành thục của mỗi thanh tra viên. Theo BASEL, sự kết hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ là điều kiện không thể thiếu trong việc tạo nên hiệu quả hoạt động của thanh tra, giám sát ở bất kỳ quốc gia nào, nhất là đối với những quốc gia tổ chức hai bộ phận giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ riêng biệt như Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay thì điều đó lại càng là vấn đề cấp thiết.

Nội dung cảnh báo sớm trong hoạt động thanh tra tại chỗ đối với các ngân hàng thương mại được cán bộ thanh tra áp dụng dựa theo các tiêu chuẩn của hiệp ước Basel 2 thông qua phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro. Xây dựng hệ thống phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro chủ yếu tập trung vào xem xét, đánh giá các rủi ro của TCTD; chất lượng và hiệu quả hệ thống quản trị rủi ro của TCTD và khả năng chống đỡ rủi ro của TCTD.

Hiệp ước Basel 2 là một loạt các quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động ngân hàng đa quốc gia. Ngày nay, dường như không một ngân hàng nào có thể tách rời mà không có mối liên hệ với các ngân hàng trên thế giới. Do vậy, hiểu biết và áp dụng những quy định Basel 2 sẽ là rất quan trọng đối với phát triển và hoạt động ổn định của các ngân hàng.

Thực trạng thanh tra giám sát vốn chủ sở hữu các NHTM tại NHNN

Trước năm 2008, công tác thanh tra giám sát ngân hàng mang tính đơn lẻ do mỗi NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố lên kế hoạch, nội dung theo từng chuyên đề với phương pháp thanh tra dừng lại ở việc thanh tra chấp hành pháp luật. Điều này dẫn đến những hạn chế trong công tác thanh tra như: không phát hiện được những rủi ro mang tính hệ thống, không đánh giá chính xác thực trạng tài chính của TCTD, có sự chồng chéo thanh tra giữa trung ương và NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, các vi phạm chỉ ra còn chung chung, không rõ đối tượng chịu trách nhiệm và cách xử lý cùng một vi phạm không thống nhất giữa các đơn vị.



Với thực trạng trên, ngày 1/8/2009, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (TTGSNH) đã được thành lập theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/8/2009. Theo đó, Cơ quan TTGSNH được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện đồng thời 4 khâu của qua trình quản lý, thanh tra, giám sát đối với các TCTD gồm: cấp, thu hồi giấy phép; xây dựng các chính sách, quy định về tổ chức, hoạt động và an toàn hoạt động ngân hàng; giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; xử lý vi phạm. Với cơ cấu tổ chức mới, công tác thanh tra ngân hàng đã có những thay đổi trên các mặt [53]:

Về phương pháp thanh tra, chuyển từ phương pháp thanh tra đơn lẻ sang phương pháp thanh tra toàn diện TCTD tức là mở rộng quy mô và phạm vi thanh tra, thanh tra từ Hội sở chính đến các chi nhánh và phòng giao dịch của các đối tượng thanh tra, từ đó đưa ra kết quả thanh tra tổng thể về TCTD. Ngoài ra, bên cạnh phương pháp thanh tra, giám sát tuân thủ (thanh tra giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật trong hoạt đông kinh doanh của TCTD), Cơ quan TTGSNH đã bước đầu kết hợp với thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro với các nội dung: xem xét, đánh giá rủi ro của TCTD; chất lượng và hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro của TCTD; đánh giá hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ của TCTD.

Về hình thức triển khai, thanh tra ngân hàng thực hiện chỉ đạo mang tính hệ thống từ Cơ quan TTGSNH xuống các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, các báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra được NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thực hiện định kỳ, giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng theo dõi sát sao kết quả thanh tra trên toàn hệ thống để báo cáo Thống đốc NHNN có chỉ đạo kịp thời, đạt yêu cầu và mục tiêu của kế hoạch thanh tra chuyên ngành.

Về nội dung thanh tra, tập trung một số vấn đề như:

- Đánh giá thực trạng tài chính của từng TCTD, xác định các khoản tổn thất, mức trích lập dự phòng rủi ro cho các tài sản chính;

- Làm rõ được tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông, nhóm cổ đông và người liên quan;

- Làm rõ dư nợ cấp tín dụng của 01 cổ đông, nhóm cổ đông và người liên quan;

- Đánh giá tình hình chấp hành các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các quy định về đảm bảo anh toàn hoạt động ngân hàng, về vốn điều lệ, về xử lý nợ xấu, sở hữu chéo,…



Về tài liệu kiểm tra, dựa trên nội dung thanh tra, các Đoàn thanh tra sẽ yêu cầu các văn bản, quy định của TCTD trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và báo cáo kết quả thực hiện các quy định này. Ngoài ra, các dữ liệu về tình hình hoạt động kinh doanh, mua bán cổ phần, tỷ lệ sở hữu cổ phần, các hoạt động kinh doanh ngoài ngành như chứng khoán, bảo hiểm,… cũng là căn cứ kiểm tra. Bên cạnh đó, Đoàn thanh tra sẽ phối hợp với dữ liệu do Bộ Tài chính (cơ quan giám sát chuyên ngành chứng khoán, bảo hiểm) theo dõi, kiểm tra các giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán bảo hiểm để phát hiện các sai phạm.

Về chu kỳ thanh tra, trong quá trình lập kế hoạch thanh tra hàng năm, với những tổ chức tín dụng yếu kém, hoạt động có rủi ro cao sẽ tăng tần suất thanh tra. Để tính thời gian thanh tra các đối tượng, trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra, các Đoàn thanh tra sẽ nắm bắt tình hình hoạt động của TCTD để định lượng khả năng, lĩnh vực hoạt động, nghiệp vụ có vi phạm.

Về xử lý vi phạm, giai đoạn 2004-2014 tuân theo Nghị định 202/2004/NĐ- CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và Nghị định 95/2011/NĐ-CP ngày 20/12/2011 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 202/NĐ-CP. Tuy nhiên trong giai đoạn này, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ, ngân hàng có nhiều sửa đổi, bổ sung. Ngoài ra, trong tiến trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tiếp thu và ứng dụng nhiều sản phẩm công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng mới. Từ đó, đã phát sinh các hành vi vi phạm nhưng chưa được bổ sung kịp thời vào các Nghị định này. Ngày 17/10/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định 96/2014/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 96) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng thay thế Nghị định 202/2004/NĐ-CP và Nghị định 95/2011/NĐ-CP. Theo Nghị định 96, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng gồm các vi phạm quy định về: quản lý và sử dụng giấy phép; tổ chức, quản trị, điều hành; cổ phần, cổ phiếu; huy động vốn và phí cung ứng dịch vụ; cấp tín dụng, nhận ủy thác, ủy thác và hoạt động liên ngân hàng; hoạt động thông tin tín dụng; hoạt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023