Khái Niệm, Địa Vị Và Trách Nhiệm Pháp Lý Của Gđ/tgđ Trong Ctcp


là người đã làm TGĐ trước kia thì quyền của Chủ tịch này mạnh (do phe cánh); còn nếu là người mới cử xuống, trong khi TGĐ không đổi thì Chủ tịch mới này chỉ có quyền trên danh nghĩa. Khi người này muốn giành quyền thì công ty sẽ có tranh chấp giữa Chủ tịch mới và TGĐ cũ. Ở nhiều CTCP tại Việt Nam, chủ tịch HĐQT chỉ đóng vai trò là người triệu tập và chủ tọa hội nghị. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 điều 116 “trường hợp Điều lệ công ty không quy Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật, thì Giám đốc hoặc TGĐ là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Quy định này thể hiện rằng luật pháp thiên về cho TGĐ làm người đại diện theo pháp luật cho công ty. Quan niệm như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho TGĐ thực hiện quyền điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày và xử lý các vấn đề đối ngoại kịp thời.

b. Quyền của các thành viên HĐQT khác:

LDNVN 2005 cũng giống như Luật Công ty của nhiều nước khác không tập trung quy định các quyền của các thành viên HĐQT mà quy định trong nhiều điều khoản, bao gồm: (i) Quyền dự họp HĐQT và thực hiện quyền biểu quyết; (ii) Quyền thực hiện nghiệp vụ quản lý điều hành; (iii) Quyền đại diện công ty một cách hữu hạn. Trong phạm vi quyền hành của mình, thành viên điều hành của HĐQT có quyền đại diện công ty trong công việc đối ngoại; (iv) Quyền tìm đọc và được thông tin. Để thực hiện thẩm quyền của mình, các thành viên HĐQT có quyền tìm đọc các tài liệu về tài chính, sổ biên bản hội nghị, v.v, có quyền được thông báo các thông tin về quản lý kinh doanh của công ty.

3.2. Nghĩa vụ của các thành viên HĐQT

Nghĩa vụ của các thành viên HĐQT cũng như của GĐ/TGĐ và những người quản lý khác của công ty được quy định cụ thể trong Điều 119 LDN 2005. Theo đó, các thành viên HĐQT cần phải có 2 nghĩa vụ cơ bản là: (i) Nghĩa vụ cẩn trọng - nghĩa vụ này đòi hỏi các thành viên HĐQT cần phải giữ thái độ cẩn thận, mẫn cán trong việc quản lý công việc của công ty; (ii) Nghĩa vụ trung thành - Nghĩa vụ này yêu cầu các thành viên HĐQT phải toàn tâm, toàn ý phục vụ công ty, không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.


4. Trách nhiệm pháp lý của các thành viên HĐQT

Xét về mối quan hệ giữa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm, bản chất của trách nhiệm pháp lý là những biện pháp hay chế tài để thúc đẩy người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, và để quyền lợi được đảm bảo. Đối tượng của nghĩa vụ là những hành vi “cần phải làm” hoặc “không được làm”, trong khi trách nhiệm là những hậu quả mà người có nghĩa vụ không làm tròn nghĩa vụ đó. Trách nhiệm của các thành viên HĐQT có nghĩa là những hậu quả pháp định mà các thành viên đó bắt buộc phải nhận khi họ đã vi phạm các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.

Về đối tượng: Các thành viên HĐQT phải chịu trách nhiệm đối với cổ đông, trái chủ, người thứ ba, và thậm chí đối với công chúng xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Về chủ thể gánh chịu trách nhiệm: Trách nhiệm của các thành viên HĐQT bao gồm trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới. Trách nhiệm cá nhân xuất phát từ trường hợp một thành viên HĐQT thực hiện nghĩa vụ và có lỗi cá nhân, gây thiệt hại cho công ty và cho người khác. Trách nhiệm liên đới xuất phát từ trường hợp một số hoặc toàn thể các thành viên HĐQT thông qua một quyết định trái phép và gây thiệt hại cho công ty, cổ đông hoặc người khác.

Về hình thức của trách nhiệm: Gồm trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hành chính bao gồm kỷ luật hành chính và xử phạt hành chính. Trách nhiệm hình sự thể hiện sự ảnh hưởng tiêu cực của trách nhiệm của các thành viên HĐQT không những đã gây thiệt hại cho công ty, người thứ ba, đồng thời đã mang lại hậu quả bất lợi cho trật tự kinh tế xã hội. Trách nhiệm của các thành viên HĐQT chủ yếu là trách nhiệm dân sự, còn trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự chỉ là phụ. Trách nhiệm dân sự chủ yếu là trách nhiệm về tài sản, mà biện pháp của nó chủ yếu là bồi thường thiệt hại. Sở dĩ như vậy là vì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều được đánh giá và thể hiện bằng lợi ích kinh tế.

Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - 9

Trách nhiệm pháp lý của thành viên HĐQT theo quy định của LDN 2005 được thể hiện trong các trường hợp sau:


Một là, Khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, HĐQT phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ; nếu làm trái gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối được miễn trừ trách nhiệm. Trong trường hợp này, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất một năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định nói trên (khoản 4, điều 108)

Hai là, Xử lý các cổ phần được mua lại: Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được tiêu hủy ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch HĐQT và TGĐ phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc không tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty (khoản 3, điều 92, LDN 2005);

Ba là, Thu hồi tiền thanh toán cổ phần mua lại hoặc cổ tức: Khi thanh toán cổ phần mua lại trái với khoản 1 điều 92 (tức là ngay sau khi thanh toán hết số cổ phần được mua lại, công ty không bảo đảm thanh toán được đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác) hoặc trả cổ tức trái với quy định tại điều 93 LDN 2005 thì các cổ đông phải hoàn trả cho công ty số tiền hay tài sản đã nhận; trường hợp cổ đông không hoàn trả được cho công ty thì cổ đông đó và tất cả thành viên HĐQT phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị số tiền, tài sản chưa được hoàn lại (điều 94). Việc liên đới này sẽ khó thực hiện trong thực tế, có thể bên đã nhận phải trả lại, còn bên kia sẽ nhắc nhở.

Bốn là, Triệu tập họp ĐHĐCĐ: Nếu Điều lệ không quy định thời hạn, thì HĐQT phải triệu tập họp ĐHĐCĐ trong vòng 30 ngày, kể từ ngày số thành viên HĐQT còn lại ít hơn số quy định; theo yêu cầu của BKS và của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp HĐQT không triệu tập họp như quy định thì Chủ tịch phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh đối với công ty (điều 97);


Năm là, Triệu tập họp HĐQT: Chủ tịch HĐQT phải triệu tập họp HĐQT trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của BKS, GĐ/TGĐ, hay ít nhất năm người điều hành khác, hoặc ít nhất 2 thành viên HĐQT. Trường hợp Chủ tịch không triệu tập họp HĐQT theo đề nghị thì Chủ tịch phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra đối với công ty và người đề nghị có quyền thay thế HĐQT triệu tập họp HĐQT (khoản 5, điều 112.)

Sáu là, Về biên bản họp ĐHĐCĐ và biên bản họp HĐQT: Điểm b và đ, khoản 2 điều 111 LDN 2005 quy định Chủ tịch HĐQT là chủ tọa cuộc họp HĐQT và chủ tọa cuộc họp ĐHĐCĐ. Chủ tọa và thư ký cuộc họp phải liên đới chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung biên bản họp ĐHĐCĐ và HĐQT (khoản 3 điều 106 và điểm i khoản 1 điều 113).

5. Cuộc họp HĐQT

HĐQT họp mỗi tháng một lần (khoảng 34% số công ty được điều tra), mỗi quý một lần (khoảng 34%) và hai tháng một lần (khoảng 12%). Có HĐQT ở một số ít công ty họp hai tuần/lần. Tại đa số các công ty, thời gian mỗi lần họp kéo dài khoảng 4 giờ (trên 80%); và khoảng 11% các công ty họp HĐQT kéo dài 8 giờ; cá biệt có trường hợp kéo dài đến 2 ngày. Thời gian họp trung bình của HĐQT là khoảng 4 đến 5 tiếng1.

Vấn đề thường thảo luận tại các cuộc họp HĐQT khá đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào các vấn đề như báo cáo kết quả kinh doanh (tháng, quý, nửa năm và hàng năm) cũng như kế hoạch kinh doanh của giai đoạn tiếp theo, thảo luận quyết định về dự án đầu tư cụ thể, giải pháp phát triển kinh doanh cụ thể, thảo luận và quyết định về giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực hiện kế hoạch kinh doanh, thảo luận và quyết định về vấn đề nhân sự của công ty, v.v. Rất ít trường hợp bàn thảo và quyết định về chiến lược phát triển dài hạn của công ty.

Chủ tịch HĐQT thường là người chuẩn bị nội dung và chương trình họp đúng như quy định của LDN (80% số công ty được điều tra); số còn lại do thành viên HĐQT, GĐ, thư ký công ty hoặc thậm chí trưởng phòng Tổ chức hành chính chuẩn


1 Số liệu từ Điều tra thực tế về quản trị CTCP của Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, trình bày trong cuốn Công ty Vốn, Quản lý và Tranh Chấp, Nxb Tri Thức, năm 2009, tr. 319.


bị. Trong đại đa số các cuộc họp (khoảng 95%) đều có thông qua quyết định bằng văn bản.

Từ thực tế vận hành HĐQT của CTCP như trình bày trên đây có thể rút ra một số kết luận sau:

Thứ nhất, Số lượng thành viên HĐQT của các CTCP ở nước ta là không lớn, có trình độ chuyên môn không cao, đa số chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp (phần lớn vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý công ty).

Thứ hai, Đại đa số thành viên HĐQT đều là cổ đông lớn, hoặc đại diện của cổ đông lớn, trực tiếp nắm giữ các chức danh quản lý khác nhau trong công ty; gần 75% Chủ tịch HĐQT đồng thời kiêm TGĐ, chưa có sự tách biệt giữa thành viên HĐQT và người quản lý điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày1.

Thứ ba, Quyền lực của HĐQT tập trung chủ yếu vào Chủ tịch HĐQT đồng thời kiêm TGĐ công ty.

Thứ tư, cơ cấu, số lượng và thành phần của HĐQT như đã trình bày ở trên có thể dẫn đến một số hệ quả sau: (i) HĐQT trong các CTCP ở nước ta rất “tập quyền”; nắm giữ và chi phối quyền của ĐHĐCĐ, quyền của bản thân HĐQT, và quyền điều hành của TGĐ; (ii) Hoạt động thực tế của HĐQT thiên về điều hành hơn là hoạch định chiến lược và giám sát thực thi chiến lược phát triển công ty; (iii) Sự giám sát của cổ đông đối với HĐQT còn yếu do cơ cấu sở hữu tập trung; (iv) Nguy cơ lạm dụng quyền lực của HĐQT nói chung và của Chủ tịch HĐQT nói riêng để thu lợi riêng cho mình và cho người khác là rất lớn. Các hình thức lạm dụng thường thấy trong thực tế là: kiến nghị phát hành cổ phiếu ưu đãi cho thành viên HĐQT (và chính họ cũng là cổ đông bỏ phiếu cho kiến nghị đó); kiến nghị ưu đãi riêng cho người lao động, trong đó, HĐQT được hưởng phần nhiều hơn so với người lao động bình thường khác; thực hiện giao dịch nội gián và giao dịch của công ty với các bên có liên quan của chính họ; sử dụng thông tin, bí quyết và cơ hội kinh doanh của chính công ty để phục vụ lợi ích riêng cho mình và các bên có liên quan.


1 Số liệu từ Điều tra thực tế về quản trị CTCP do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung thực hiện cuối năm 2007, trình bày trong cuốn “Công ty Vốn, Quản lý và Tranh chấp”, Nxb Tri Thức, năm 2009, tr.305.


IV. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về GĐ/TGĐ‌

1. Khái niệm, địa vị và trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ trong CTCP

TGĐ là một chức danh có quyền và nhiệm vụ điều hành công việc quản lý kinh doanh thường nhật của công ty, là cán bộ quản lý cao cấp của công ty do HĐQT bổ nhiệm để trợ giúp HĐQT điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Nhìn chung, đa số các nước trên thế giới đều nhận định rằng, GĐ/TGĐ công ty không phải là người chủ, cũng không phải là người làm thuê thông thường, mà là người có quyền chỉ huy điều hành công việc hàng ngày và có địa vị cấp cao ở công ty.

Ở các nước, TGĐ nhìn chung là một chức danh do Điều lệ công ty quy định mang tính tùy nghi, có vai trò trợ giúp điều hành nghiệp vụ cho HĐQT và không phải là một cơ quan của công ty. Địa vị pháp lý và quyền hạn của TGĐ do Điều lệ công ty và HĐQT quyết định chứ pháp luật không quy định quyền hạn của TGĐ.

Ở Việt Nam, LDN 2005 vừa quy định GĐ/TGĐ là một chức danh do HĐQT bổ nhiệm để điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty lại vừa quy định rất kỹ lưỡng về quyền hạn của GĐ/TGĐ tại khoản 3 điều 116. Cách quy định như vậy xuất phát từ thực trạng vận hành của các DNNN từ xưa cho tới nay, GĐ/TGĐ luôn luôn là một quan chức nắm giữ quyền lực toàn diện và thường không chịu sự kiểm soát bởi bất kỳ một cơ quan nào trong doanh nghiệp. Khi cổ phần hóa các DNNN, tình trạng này vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Vì là một chức danh pháp định lại có quyền hạn rõ ràng theo LDN dẫn đến không ít trường hợp TGĐ trong các CTCP hiện nay nắm quyền tự quyết và có xu hướng chống đối sự kiểm soát của HĐQT. Với cách pháp định hóa chức quyền của GĐ/TGĐ như trên, giới luật gia Việt Nam về cơ bản nhận định rằng GĐ/TGĐ là một cơ quan của công ty hay ít nhất nó cũng là một nửa cơ quan của công ty.

Về trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ: Cũng giống như trách nhiệm pháp lý của các thành viên HĐQT, trách nhiệm pháp lý của GĐ/TGĐ chủ yếu là trách nhiệm dân sự mà nội dung cơ bản là bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm này bao gồm trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới. Trách nhiệm cá nhân của GĐ/TGĐ được quy định tại khoản 4 điều 116 LDN 2005, theo đó GĐ/TGĐ phải điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ,


hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của HĐQT. Nếu làm trái mà gây thiệt hại cho công ty thì GĐ/TGĐ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty. Ngoài ra, GĐ/TGĐ còn phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc xử lý các cổ phần mua lại, theo đó: “Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch HĐQT và GĐ/TGĐ phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do không tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty” (khoản 3 điều 92 LDN 2005).

2. Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ

Quyền hạn của GĐ/TGĐ xuất phát từ sự ủy quyền của HĐQT, cho nên bản chất pháp lý của quyền hạn GĐ/TGĐ là quyền đại diện. Tuy nhiên, không nên đồng nhất sự ủy quyền này với quyền đại diện theo pháp luật của công ty.

LDN 2005 quy định trong trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật thì GĐ/TGĐ là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 1 điều 116). Quy định này cho thấy luật pháp Việt Nam có xu hướng thiên về cho TGĐ làm người đại diện theo pháp luật cho công ty. Quan niệm như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho TGĐ thực hiện quyền điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày và xử lý các vấn đề đối ngoại kịp thời. Tuy nhiên, nếu TGĐ vừa là người đại diện theo pháp luật của công ty vừa là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty sẽ dẫn đến thực trạng là TGĐ có địa vị pháp lý cao hơn so với HĐQT. Điều này có phần mâu thuẫn với chính quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 116 là “HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm GĐ/TGĐ” và “GĐ/TGĐ chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao”. Nếu TGĐ đã là chức danh do HĐQT bổ nhiệm thì quyền hạn và nhiệm vụ của TGĐ cần phải do Điều lệ công ty và HĐQT xác định chứ không nên do pháp luật quy định một cách trực tiếp. GĐ/TGĐ không phải là một cơ quan của công ty, mối quan hệ giữa họ với công ty là mối quan hệ ủy thác đại diện. Việc GĐ/TGĐ thực hiện các công việc giữa công ty với bên ngoài là căn cứ vào quyền đại diện của họ. Mọi quyền hạn của GĐ/TGĐ là xuất phát từ quyền hạn của HĐQT, là phụ thuộc vào HĐQT chứ không phải độc lập với HĐQT.


Khoản 3 điều 116 LDN 2005 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ bao gồm: (i) Quyền kiến nghị: kiến nghị lên HĐQT về phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh và phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty;

(ii) Quyền quyết định: quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của HĐQT, tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT, kế hoạch kinh doanh, phương án đầu tư của công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của HĐQT, quyết định mức lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty, kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của GĐ/TGĐ, tuyển dụng lao động.

Không thể phủ nhận rằng các quyền nêu trên đáng lẽ thuộc về thẩm quyền của HĐQT vì HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ (khoản 1 điều 108). Tuy nhiên, việc LDNVN 2005 phân định các quyền nêu trên đó cho GĐ/TGĐ sẽ không tránh khỏi tình trạng GĐ/TGĐ lấn chiếm thẩm quyền của HĐQT xảy ra trong thực tế. Ngoài ra, theo quy định ở khoản 1 điều 116 như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng LDNVN có xu hướng coi trọng GĐ/TGĐ, có thể chính là một phần nguyên nhân của tình trạng tranh chấp quyền lực thường xuyên xảy ra giữa Chủ tịch HĐQT và TGĐ hiện nay.

3. Sự phân nhiệm giữa TGĐ và Chủ tịch HĐQT

Quyền hạn chủ yếu trong nội bộ công ty là quyền quyết định xuất tiền, ký văn bản và đối xử với nhân viên. Điều lệ công ty cho phép HĐQT mà đại diện là chủ tịch HĐQT, ĐHĐCĐ hay TGĐ xuất tiền theo từng mức độ; và phải chính những người này ký quyết định thì công ty mới xuất tiền. Quy định này tạo nên quyền hành giữa TGĐ và Chủ tịch HĐQT. TGĐ hành động với tư cách cá nhân, Chủ tịch HĐQT hành động với tư cách tập thể, đại diện cho HĐQT. Chủ tịch có quyền quyết định chi một số tiền lớn hơn TGĐ, nên có quyền cao hơn TGĐ; nhưng quyền nhiều hơn ở đây chỉ là quyền được quyết định chi tiền nhiều hơn chứ không phải là quyền ràng buộc công ty với bên ngoài – quyền ràng buộc công ty với bên ngoài phụ thuộc vào người đại diện theo pháp luật của công ty. Để biết Chủ tịch HĐQT và TGĐ

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 08/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí