Xuất phát từ điều kiện kinh tế khó khăn (“bóc ngắn cắn dài”-như lời ông Ngọ tại xã Liên Hoà, Hòa Bình) nên người nghèo không có cơ sở để nghĩ đến phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro – “có chăng là dự trữ thóc gạo để ăn đến hết vụ thôi”. Ngay cả những đại diện đến từ nhóm thoát nghèo trong nghiên cứu cũng không thực sự có sự chuẩn bị, phòng ngừa rủi ro như mua các loại bảo hiểm hay tích luỹ tiền bạc. Liệu thực tế này còn có nguyên nhân từ sự thiếu nhận thức của người dân về khía cạnh bảo đảm an toàn, phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro? Trong quá trình tham vấn, thảo luận với cán bộ và người dân, 75% số người tham gia (bao gồm cả người thoát nghèo) cho rằng họ chưa quan tâm nhiều đến khía cạnh này. Điều này có nghĩa là cần phải nâng cao nhận thức cho người dân (cả người nghèo và thoát nghèo) về phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro.
Quy mô đối tượng: Do nhận thức về phòng ngừa, khắc phục rủi ro của người dân nói chung còn hạn chế nên hoạt động marketing xã hội nâng cao nhận thức cho càng nhiều đối tượng càng tốt. Tuy nhiên, nhóm cần tập trung hơn là người nghèo và mới thoát nghèo. Ước tính quy mô của nhóm này là khoảng 3 triệu hộ (năm 2007).
Định hướng về sản phẩm
- Trước hết cần làm cho người dân hiểu được rằng rủi ro mang tính bất ngờ và thường gây thiệt hại rất lớn nếu không có sự chuẩn bị phòng ngừa trước. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro là cách thức tối ưu.
- Nội dung thông điệp cũng cần làm rõ loại hình rủi ro nào thì cần phòng ngừa như thế nào? Khi nào thì nguy cơ rủi ro cao? Nên tập trung vào loại rủi ro nào?...
- Chia sẻ rủi ro là cách thức hữu hiệu làm giảm gánh nặng cho người chịu ảnh hưởng của rủi ro.
Sản phẩm, chính sách hỗ trợ:
- Hình thành và nhân rộng các loại hình quỹ hỗ trợ rủi ro với sự tham gia của người dân địa phương [mô hình quỹ hỗ trợ rủi ro - dự án hỗ trợ giảm nghèo GTZ, quỹ an sinh xã hội thôn bản];
- Phát triển các hình thức bảo hiểm vi mô cũng như bảo hiểm xã hội tự nguyện thích hợp cho người thu nhập thấp và có chính sách ưu đãi để người dân vùng khó khăn có thể tham gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Marketing xã hội với việc giảm nghèo bền vững ở Việt Nam - 20
- Khung Trình Bày Các Giải Pháp Marketing Xã Hội Vào Giảm Nghèo Bền Vững
- Nâng Cao Nhận Thức, Thúc Đẩy Năng Lực Ở Người Nghèo
- Khuyến Khích Các Tổ Chức, Cá Nhân Xây Dựng Cộng Đồng Đoàn Kết, Tương Trợ
- Kneeshaw, R. (1996). The Hiv/aids Initiative For Young Adults: Phase 2, Literature Review. Gail V. Barrington & Associates Inc. Alberta
- Lựa Chọn Hình Thức Và Công Cụ Nghiên Cứu Theo Đối Tượng
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Định hướng về giá đối với việc phòng ngừa từ phía người dân
Trong tình trạng nghèo, người dân ít có khả năng tham gia mua các loại hình bảo hiểm, nhiệm vụ của người làm marketing vừa phải làm rõ lợi ích (thông qua so sánh chi phí và lợi ích nếu người dân chủ động phòng ngừa rủi ro), bên cạnh đó hỗ trợ người nghèo mua bảo hiểm với các hình thức tham gia lao động thay vì tiền mặt.
Hình thức và kênh tiếp cận
- Các thông điệp này nên được chuyển tải bằng cách định hướng thành chủ đề trao đổi, thảo luận trong các cuộc tập huấn, giao lưu.
- Đưa thành bài giảng, hướng dẫn cho trẻ em, thanh niên trong các trường học
– đây là kênh truyền thông rất tích cực đối với các hộ gia đình có con em đi học.
- Gắn hoạt động tư vấn phòng ngừa rủi ro, bán bảo hiểm ưu đãi cho người dân vùng khó khăn cùng với hoạt động cho vay tín dụng ưu đãi của ngân hàng chính sách xã hội.
Quảng bá và xúc tiến
- Những người tham gia các hoạt động phòng ngừa sớm sẽ được khuyến khích động viên về tinh thần, vật chất.
- Ưu đãi cho người nghèo/cận nghèo mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
3.3.2 Các giải pháp và nội dung tăng cường nhận thức, hành vi đối với đối tác xã hội trong hoạt động giảm nghèo bền vững
Trên cơ sở phương pháp luận về nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi đối với các nhóm ảnh hưởng giảm nghèo bền vững; căn cứ vào các phát hiện từ thực tiễn (ở phần 2) cũng như hệ quan điểm, nguyên tắc được xác lập trên đây, nội dung này của tập trung vào làm rõ nội dung cơ bản của các giải pháp, can thiệp chính hướng đến việc tăng cường nhận thức, thúc đẩy hành vi của các đối tác xã hội đến giảm nghèo bền vững.
3.3.2.1. Tạo nhận thức, thái độ tích cực đối với mục tiêu giảm nghèo.
Để tăng cường sự tham gia của các đối tác xã hội vào việc hỗ trợ và nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững cần phải có những chiến lược can thiệp. Các định hướng lớn là cần phải can thiệp vào những khía cạnh nào để thu hút được sự quan tâm hỗ trợ nhiều nhất dành cho giảm nghèo?
Việc thu hút, vận động sự tham gia hỗ trợ giảm nghèo đối với hầu hết các cơ quan, tổ chức phải tuân theo trình tự các bước trong vận động chuyển đổi hành vi, nghĩa là đi từ nâng cao nhận thức, tăng cường sự quan tâm, thúc đẩy các nỗ lực của đối tác xã hội hướng vào giảm nghèo và duy trì, củng cố các nỗ lực tích cực.
Làm cho các cá nhân trong các đối tác xã hội tự nguyện tham gia thực hiện các hoạt động hướng đến giảm nghèo bền vững như mong muốn thì trước tiên cần làm cho họ nhận thức đúng về giảm nghèo, nhận thức được những giá trị từ hành động giúp cho người nghèo thoát khỏi đói nghèo đồng thời cung cấp những tư vấn cho khả năng tham gia, đóng góp vào công cuộc giảm nghèo của tổ chức. Với đặc điểm là các cá nhân trong tổ chức thường có trình độ kiến thức cao nên các nỗ lực để nâng cao nhận thức về một vấn đề cho nhóm đối tượng này đòi hỏi có sự chuẩn bị kỹ càng, thông điệp truyền thông cần được khái quát, sâu sắc. Các chiến lược để nâng cao nhận thức đối với nhóm đối tượng này có thể tiếp cận theo các hướng sau:
- Tổ chức các hoạt động phổ biến chủ trương, chính sách về giảm nghèo trực tiếp cũng như trên báo chí;
- Tổ chức các sự kiện quyên góp, các cuộc tranh luận về chính sách kinh tế xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Tổ chức các khoá huấn luyện, trao đổi các nội dung liên quan để đối tượng cảm nhận một cách đầy đủ các giá trị mà hoạt động giảm nghèo mang lại.
- Quảng bá trên các phương tiện cộng đồng, các bài viết, phóng sự, các buổi toạ đàm chuyên đề trên truyền hình, báo đài.
Không phải cứ có nhận thức thì chắc chắn hành vi sẽ xảy ra, các cá nhân trong các đối tác xã hội cần được thúc đẩy nhiều hơn với những kích thích môi trường thì hành vi mới có thể xuất hiện. Trong quá trình từ nhận thức đến hành vi có một bước quan trọng đó là tạo cho giảm nghèo bền vững một chỗ đứng tích cực trong thái độ của các đối tác. Thực tế có nhiều mục tiêu, vấn đề khác mà đối tác xã hội cũng quan tâm. Điều này được coi là sự cạnh tranh giữa thái độ quan tâm của đối tác xã hội đối với các vấn đề. Ví dụ: Một nhà tài trợ hoạt động trong lĩnh vực phát triển với một ngân sách có hạn nhưng đang cân nhắc tài trợ cho phát triển công nghệ cao (lĩnh
vực này người nghèo khó được hưởng lợi) hay tài trợ cho các dự án giảm nghèo (thực tế những ví dụ như thế này là rất nhiều và các vấn đề, đề xuất tài trợ mà nhà tài trợ nhận được nhiều hơn rất nhiều so với khả năng của họ). Và để nhận được thái độ quan tâm tích cực hơn đến giảm nghèo thì không thể không thực hiện các chiến lược tác động đến thái độ của họ. Các chiến lược can thiệp tăng cường sự quan tâm và thái độ tích cực đến giảm nghèo bền vững gồm:
- Thể hiện cam kết mạnh mẽ của nhà nước đối với mục tiêu giảm nghèo bền vững và đánh giá cao đóng góp của các đối tác xã hội đã tham gia.
- Tuyên truyền, vận động cho những giá trị tốt đẹp của giảm nghèo bền vững gắn với văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống...
- Tổ chức các hội thảo chuyên đề đánh giá thực trạng nghèo đói, chỉ ra những hạn chế hoặc khó khăn mà người nghèo gặp phải.
- Giới thiệu và tôn vinh những cá nhân, tổ chức đóng góp tích cực vào giảm nghèo bền vững.
- Phân tích, khẳng định những lợi ích mà đối tác xã hội nhận được khi tham gia, hỗ trợ cho giảm nghèo bền vững (uy tín của tổ chức, địa vị của tổ chức trong cộng đồng, xã hội,...).
Thúc đẩy các nỗ lực hỗ trợ cho giảm nghèo là hoạt động đặc biệt quan trọng trong quá trình vận động để các đối tác xã hội đưa ra quyết định và hành động của mình tham gia hỗ trợ giảm nghèo bởi vì đó là bước ngoặt chuyển từ nhận thức, thái độ sang hành vi. Các biện pháp can thiệp để đạt mục tiêu này cần xét đến hai nhóm chính:
Đối với nhóm hành vi mong đợi là quyết định hỗ trợ cho những hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định (ví dụ: quyết định tài trợ cho một chương trình, dự án giảm nghèo) thì các can thiệp cần thực hiện một cách tích cực với các chiến lược can thiệp như:
- Đưa ra các đề xuất khả thi nhất và phù hợp với chức năng, vai trò cũng như tôn chỉ, mục đích hoạt động của tổ chức đó.
- Tổ chức các cuộc gặp trao đổi về nội dung, cách thức giảm nghèo giữa phía vận động và phía đối tác xã hội để tìm tiếng nói chung.
Đối với nhóm hành vi mong đợi là những hoạt động thường xuyên như vận động các tổ chức xã hội tại cộng đồng hướng dẫn người nghèo làm ăn hoặc vận động để cán bộ tín dụng tích cực tiếp cận với người nghèo hơn tạo điều kiện cho người nghèo được vay vốn phát triển kinh tế,.. thì hướng can thiệp là mang tính bền bỉ “mưa lâu thấm dần” kèm theo các hình thức đánh giá, ghi nhận cả quá trình thực hiện. Cụ thể là:
- Giới thiệu và tôn vinh những cá nhân, tổ chức đóng góp tích cực vào giảm nghèo bền vững.
- Giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
- Tổ chức các cuộc trao đổi với lãnh đạo của tổ chức để thúc đẩy hành động tích cực của nhân viên trong tổ chức.
- Tập huấn và hướng dẫn phương pháp làm việc với người nghèo.
- Tổ chức các sự kiện như động viên, khuyến khích thành tích đóng góp cho giảm nghèo ở từng cấp độ (tài trợ tổ chức thăm quan, học tập kinh nghiệm, mô hình ở địa phương khác hoặc nước ngoài,..).
Chỉ cần duy trì và củng cố mối quan tâm trên cơ sở đáp ứng hay thoả mãn những nhu cầu của các đối tác xã hội mà họ nhận được qua lần tham gia đầu tiên thì họ sẽ có nhiều khả năng tiếp tục tham gia, hỗ trợ giảm nghèo. Lập luận này đúng với cả các cá nhân và các tổ chức. Hơn nữa, các hoạt động duy trì, củng cố thường ít tốn kém thời gian, công sức hơn là bắt đầu từ đầu. Vì vậy, hoạt động duy trì, củng cố quan hệ, thúc đẩy các hành vi hỗ trợ giảm nghèo tiếp theo là rất cần thiết. Những hình thức thực hiện việc duy trì, củng cố các nỗ lực của các đối tác xã hội hỗ trợ giảm nghèo chủ yếu là:
- Tổ chức các hoạt động chia sẻ kinh nghiệm giữa bên thực hiện và đối tác xã hội, chỉ ra những điểm mạnh, yếu của mỗi bên để hướng đến những hoạt động phối hợp một cách tích cực hơn.
- Tiếp tục phối hợp, phát triển các đề xuất phù hợp với đặc điểm và khả năng của đối tác.
- Thực hiện các hoạt động giao lưu phi chính thức tạo thêm các liên kết xã hội.
- Thực hiện các chương trình tôn vinh, khen thưởng động viên kịp thời một cách chính thức.
- Tổ chức các khoá huấn luyện cho những người trực tiếp làm việc với người nghèo, xây dựng mạng lưới những người cùng hoạt động cho mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Nếu lu ận cứ lý thuyết chỉ ra rằng giảm nghèo bền vững cần có sự tham gia tích cực, hiệu quả của các đối tác xã hội nhưng để thực hiện được vai trò quan trọng là tạo điều kiện môi trường, nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo thì các đối tác xã hội phải có sự nhận thức đúng và thái độ tích cực đối với công tác giảm nghèo. Các phát hiện từ nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi cho thấy không ít những khác biệt về nhận thức về giảm nghèo bền vững, những biểu hiện chưa “toàn tâm, toàn ý” với công tác giảm nghèo ở những nhóm đối tác xã hội. Ngay cả những cán bộ có nhận thức về giảm nghèo vẫn có những khó khăn để không thể nhiệt tình với sự nghiệp giảm nghèo. Để tạo nên sự thống nhất nhận thức, thái độ tích cực và hành động hỗ trợ giảm nghèo hiệu quả thì cần thực hiện marketing xã hội, truyền thông, vận động. Đây cũng chính là mục tiêu của giải pháp này.
Đối tượng mục tiêu: Phân tích từ thực trạng cho thấy các đối tác xã hội và cộng đồng nói chung chưa có sự thống nhất nhận thức về giảm nghèo bền vững, và do vậy đối tượng của hoạt động này là tất cả các lực lượng ảnh hưởng tới giảm nghèo. Tuy nhiên, các nỗ lực marketing xã hội tập trung cần hướng vào nhóm cán bộ chính quyền các cấp (từ các bộ ngành đến cán bộ cơ sở trực tiếp tham gia vào công tác giảm nghèo-không phải vì nhận thức, thái độ của họ về giảm nghèo bền vững kém hơn mà vì nếu họ có nhận thức đúng thì định hướng giảm nghèo đúng, hơn nữa với vai trò của mình họ sẽ làm cho các nhóm đối tác xã hội khác nhận thức đúng).
Quy mô: Đối với nhóm đối tượng cần tập trung thay đổi nhận thức, tổng số người ước tính là 25.000 cán bộ.
Để đạt được mục tiêu nâng cao nhận thức, thái độ đối với giảm nghèo bền vững thì những thông điệp cần phải hướng tới các nội dung sau:
- Làm cho các lực lượng ảnh hưởng nhận thức được giảm nghèo bền vững không đơn thuần là thu nhập tăng mà còn phải đáp ứng các khía cạnh như quản lý nguồn lực địa phương hiệu quả, người dân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội, minh bạch và cộng đồng đoàn kết và an toàn;
- Củng cố được niềm tin và trách nhiệm của cán bộ với công tác giảm nghèo. Làm cho đối tượng thực sự nhận thấy nỗ lực thúc đẩy giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ khó khăn nhưng cao cả. Lĩnh vực giảm nghèo bền vững là cơ hội tốt để đóng góp sức mình vào phát triển địa phương.
Hình thức chuyển tải và biện pháp thúc đẩy thay đổi thái độ: Với đặc điểm của các nhóm đối tượng này là về cơ bản có trình độ hiểu biết, hơn nữa nội dung các thông điệp khá phức tạp không giản đơn như những thông điệp quảng cáo thông thường nên nghiên cứu này giới thiệu một số gợi ý về hình thức chuyển tải thông điệp sau:
- Các thông điệp này nên được chuyển tải bằng cách định hướng thành chủ đề trao đổi, thảo luận trong các cuộc tập huấn, giao lưu;
- Tạo ra các cuộc tranh luận trên các phương tiện thông tin đại chúng về chủ đề làm thế nào giảm nghèo bền vững cũng như những tiêu chí để đánh giá giảm nghèo bền vững;
- Tôn vinh những hành động, đóng góp cho công tác phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo ở địa phương trong các sự kiện văn hoá-xã hội của địa phương;
- Tạo điều kiện cũng như những hình thức khuyến khích bằng lợi ích khác như nâng lương, đề bạt vị trí cao hơn, hỗ trợ đi du lịch, tham quan mô hình,...
3.3.2.2 Thúc đẩy việc xây dựng, thực thi các cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện để người nghèo vươn lên, giải quyết nghèo đói một cách bền vững
Nhìn từ khía cạnh mức độ quan trọng đối với giảm nghèo bền vững thì chức năng, vai trò của việc xây dựng, thực thi cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện để người nghèo vươn lên, giải quyết nghèo đói là đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua cơ chế chính sách kinh tế nói chung đã chuyển sang khuyến khích nhiều hơn sự năng động của người dân phát triển kinh tế. Chính những chính sách này là
nhân tố quan trọng giúp giảm nghèo nhanh tuy nhiên như đã trình bày ở phần trước, không ít cơ chế, chính sách hiện nay đang khuyến khích người dân muốn thuộc diện nghèo; mức độ khuyến khích người nghèo tham gia quyết định cũng như tham gia giám sát chưa nhiều; chính sách thiếu linh hoạt, đa dạng. Điều này cho thấy nhận thức chưa đầy đủ về giảm nghèo bền vững. Cũng phải khẳng định rằng, định hướng cơ bản về cơ chế thích hợp để giảm nghèo bền vững trong nghiên cứu này là cơ chế khuyến khích sự tham gia, tính năng động của người dân, khuyến khích minh bạch và trách nhiệm giải trình. Trong khi đó, nội dung chính sách là hướng đến nâng cao năng lực, mở rộng cơ hội phát triển, cung cấp dịch vụ xã hội hiệu quả, chủ động phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro.
Với vai trò quan trọng của hệ thống cơ chế chính sách, để giảm nghèo bền vững rất cần những nỗ lực xây dựng và thực thi cơ chế, chính sách thích hợp. Nhưng để đạt được mong muốn đó những cán bộ các cấp tham gia vào việc xây dựng, thực thi chính sách cần được chia sẻ, thống nhất nhận thức một cách sâu sắc và vì vậy, một kế hoạch hành động cho mục tiêu này là khách quan.
Đối tượng mục tiêu: Như đã phân tích, đối tượng tham gia vào hoạt động thiết kế, xây dựng cơ chế, chính sách tập trung vào cán bộ các cấp (đặc biệt là cấp trung ương-cán bộ thuộc các bộ ngành). Có thể chia thành nhóm cán bộ tham gia vào việc thiết kế, xây dựng chính sách ở cấp vĩ mô và cán bộ tham gia vào việc xây dựng, thực thi chính sách ở cấp địa phương, cơ sở.
Sản phẩm marketing xã hội: Trước hết phải làm cho cán bộ nhận thức đúng rằng hệ thống chính sách phát triển kinh tế-xã hội là nền tảng cơ sở để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững; Thuyết phục về trách nhiệm của các cơ quan xây dựng chính sách là phải điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp theo hướng giảm nghèo bền vững tức là cơ chế, chính sách khuyến khích sự tham gia của người dân, khuyến khích sự năng động và nỗ lực giảm nghèo của người nghèo; đồng thời khẳng định sự tin tưởng rằng đội ngũ cán bộ hiện nay có đủ năng lực, trình độ để xây dựng cơ chế, chính sách thích hợp gắn tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện nếu họ quyết tâm.