Nhận Xét Chung Về Thực Trạng Quản Lý Ctcp Tại Việt Nam Hiện Nay


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN‌‌

I. Nhận xét chung về thực trạng quản lý CTCP tại Việt Nam hiện nay

1. Những thành công

Xét về khía cạnh quản lý doanh nghiệp, LDN năm 2005 đã xác định nền tảng cho cơ chế quản lý công ty nhìn chung là thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế. So với LDN năm 1999, LDN năm 2005 quy định đầy đủ hơn, toàn diện hơn, có nhiều quy định tương đối rõ, phù hợp, góp phần tạo lập khung pháp lý để hình thành một cơ chế quản lý có hiệu quả cho các doanh nghiệp, nhất là CTCP. Cụ thể, trong Luật có các quy định bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn chính đáng của các cổ đông; công khai thông tin và minh bạch hóa cơ chế quản lý công ty; các quyền của HĐQT và cơ chế giám sát HĐQT của chủ sở hữu trong cơ chế quản lý công ty. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động quản lý doanh nghiệp hiện nay, đồng thời quy định cụ thể về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên liên quan như cổ đông, HĐQT, giám đốc điều hành trong đó đã chú ý bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số hơn.

Đi đôi với quyền lợi thì LDN cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý CTCP, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng; thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là đối với những người quản lý.

2. Những khó khăn

Tuy LDN 2005 đã có những bước tiến quan trọng trong việc quản lý CTCP nhưng do thiếu kiến thức về quản lý doanh nghiệp cũng như thực tế triển khai việc quản lý doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ nên nhiều quy định của LDN 2005 như quy định về phương thức bầu dồn phiếu, quy định về trình tự và thủ tục họp ĐHĐCĐ,… vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống.

Phân tích thực trạng trong Chương II cho thấy trong thời gian qua đã xảy ra không ít vụ vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số. Một


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

số công ty không niêm yết, vì một số lý do thực tiễn, có xu hướng hạn chế việc các cổ đông nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu tham gia vào ĐHĐCĐ thường niên, Việc phần lớn cổ đông không tiếp cận được với thông tin của công ty hoặc không tiếp cận được thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là hiện tượng phổ biến. Cổ đông thiểu số hầu như không nhận được thông báo về các quyết định của ĐHĐCĐ, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không nhận được cả thông báo về việc trả cổ tức, v.v. Bên cạnh các quyền cơ bản của cổ đông đang bị vi phạm, thì còn hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông của các cổ đông lớn đặc biệt là cổ đông nhà nước. Một số cán bộ, cơ quan nhà nước có liên quan không phân biệt rạch ròi quyền cổ đông và quyền quản lý hành chính, đã can thiệp trực tiếp vào các công việc quản trị nội bộ của công ty như không cho phép triệu tập ĐHĐCĐ, hoặc chỉ đạo triệu tập ĐHĐCĐ vi phạm trình tự, thủ tục họp ĐHĐCĐ, chỉ định bổ nhiệm, thay thế thành viên HĐQT.

Thêm vào đó, HĐQT trong các công ty ở nước ta còn thiếu tầm nhìn chiến lược, chưa phải là thể chế giám sát và cân bằng quyền lực giữa các bên trong công ty, nhất là giữa chủ sở hữu và người điều hành. Trình độ năng lực của thành viên HĐQT còn hạn chế, đa số họ chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp (vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lý), vẫn quen và thiên về cách làm việc trong chế độ quản lý “thuận tiện”. Ngoài ra, BKS trong các CTCP ở nước ta còn mang tính hình thức chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của HĐQT và BGĐ, phục vụ cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông của công ty.

Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - 11

II. Những yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý CTCP

Hệ thống luật pháp Việt Nam đang phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế thị trường, phù hợp với các cam kết và luật pháp, thông lệ quốc tế. Hệ thống này chỉ phát huy hiệu lực và hiệu quả khi thói quen hành xử của bộ máy nhà nước và doanh nghiệp dựa vào quan hệ phải được thay thế bằng thói quen hành xử và tuân thủ theo pháp luật. Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản


lý công ty phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp thích hợp. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP cần được thực hiện theo những định hướng sau:

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP phải căn cứ vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam, qua đó góp phần tạo ra một sân chơi chung bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế.

Các quy định của pháp luật về quản lý CTCP phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh của người Việt Nam.

Các quy định về quản lý công ty CTCP phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý công ty, tăng cường tính cạnh tranh của công ty, nâng cao khả năng thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Việc hoàn thiện các quy định về quản lý CTCP cần được đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.

III. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý CTCP ở Việt Nam

1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về cổ đông

1.1. Về quyền thành lập CTCP một cổ đông


Cần thiết phải xem xét lại quy định số lượng cổ đông tối thiểu để thành lập và duy trì hoạt động của CTCP. Để tránh tình trạng lách luật cũng như để quy định của pháp luật phù hợp với nhu cầu thực tế của nhiều nhà đầu tư, LDN nên có quy định cho phép thành lập CTCP một cổ đông bởi vì CTCP một cổ đông không có sự khác biệt với CTCP nhiều cổ đông về bản chất, mà chỉ có sự khác biệt về trình tự, thủ tục thành lập. Sự hình thành và hoạt động của loại hình công ty này không ảnh hưởng đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và lợi ích của bất kỳ người thứ ba nào khác. Điều này đã được kiểm chứng ở một số nước thừa nhận mô hình công ty một cổ đông kể cả CTCP như ở Anh và ở Đức.

Bên cạnh đó, mô hình CTCP một cổ đông có thể góp phần quan trọng thực hiện chính sách cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, khi tiến hành cổ phần hoá,


cơ quan thẩm quyền ra quyết định cổ phần hoá, doanh nghiệp chốt thời điểm và tiến hành định giá bình thường, hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ảnh hưởng. Vấn đề quan trọng nhất của việc cổ phần hoá là bán cổ phần sẽ được tiến hành một cách chủ động hơn, linh hoạt hơn, và hiệu quả hơn sau khi công ty đã là CTCP. Số lượng cổ phần chào bán có thể được điều chỉnh theo thị trường, không nhất thiết phải đấu giá tất cả trong một đợt. Kinh nghiệm cho thấy, Bộ luật Thương mại của Cộng hoà Séc đã có tác dụng rất lớn trong việc chuyển đổi các DNNN thành các CTCP do việc tiếp nhận hình thức CTCP một cổ đông.

Thêm vào đó, chấp nhận hình thức CTCP một cổ đông sẽ giúp cho LDN thực hiện tốt chức năng tạo lập ra hình thức công ty đa dạng và phong phú cho các nhà đầu tư lựa chọn và phù hợp các nhu cầu thực tế của xã hội. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế ở Việt Nam đã có sự đóng góp rất lớn từ chính sách mở rộng các hình thức công ty thể hiện qua Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Và tiếp nhận hình thức CTCP một cổ đông không chỉ là một hệ quả tất yếu của việc thực hiện nguyên tắc tự do ý chí và quyền tự do kinh doanh, mà còn tạo điều kiện dễ dàng cho nhà đầu tư trong việc chuyển đổi hình thức công ty do sức ép của thị trường, do năng lực kinh doanh, cũng như do các rủi ro của đời sống, đồng thời hợp tác, liên kết với những người khác.

1.2. Về quyền dự họp ĐHĐCĐ

Quyền dự họp ĐHĐCĐ là một trong những quyền quan trọng nhất của cổ đông, là phương thức chủ yếu để thể hiện tư cách cổ đông. Thêm vào đó, cuộc họp ĐHĐCĐ là nơi quan trọng nhất để tất cả các cổ đông thể hiện mong muốn của mình. Chính vì vậy, các quy định của LDN cần tạo mọi khả năng mở cửa cho tất cả các cổ đông, không nên có quy định hạn chế quyền dự họp ĐHĐCĐ như quy định những cổ đông không có quyền biểu quyết (gồm cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại) không có quyền dự họp ĐHĐCĐ tại khoản 3 điều 82 và điều 83 LDN 2005.

Để đảm bảo các cổ đông thực sự thực hiện quyền dự họp ĐHĐCĐ một cách hữu hiệu, bên cạnh việc quy định rõ ràng và kỹ lưỡng trình tự và thủ tục triệu tập và dự


họp ĐHĐCĐ, LDN cần chú ý tới thời hạn gửi giấy mời họp ĐHĐCĐ. Khoản 1 điều 100, LDN 2005 quy định “Người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 7 ngày làm việc trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn”. Cần xem xét lại thời hạn 7 ngày có đầy đủ hay không? Thời gian này cần đủ để các cổ đông có thể xem xét chương trình họp, nghiên cứu những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận và biểu quyết tại cuộc họp, suy nghĩ và chuẩn bị đề án đưa vào chương trình họp.

1.3. Về quyền ưu đãi biểu quyết

Việc quy định chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết tại khoản 3, điều 78, LDN 2005 như ở Chương II đã phân tích là có thể tạo nên sự bất bình đẳng giữa các cổ đông (đặc biệt là sự bất bình đẳng giữa cổ đông nhà nước và các cổ đông khác trong công ty), tạo cơ hội cho cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp vào sự tự chủ kinh doanh của công ty, trái với mục đích cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hậu quả của quy định như trên là những trở ngại lớn trong việc xây dựng một cơ cấu quản lý công ty lành mạnh và hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải xem xét lại quy định này trong LDN 2005 để xây dựng một quy định mới tạo sự bình đẳng hơn giữa các cổ đông, góp phần xây dựng một cơ cấu quản lý CTCP lành mạnh và hiệu quả hơn.

1.4. Về quyền tiếp cận thông tin

Như đã phân tích ở Chương II, đối với một số loại thông tin, LDNVN 2005 có sự hạn chế cả về tỷ lệ số cổ phần tối thiểu và thời hạn nắm giữ cổ phần của cổ đông có quyền được thông tin (cổ đông phải nắm >10% tổng số cổ phần phổ thông hoặc 1 tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty, thời hạn liên tục ít nhất là 6 tháng

– tức là các cổ đông lớn). Đối tượng của quyền tìm đọc và được thông tin của các cổ đông lớn trên nằm trong phạm vi “xem xét và trích lục số biên bản và các nghị quyết của HĐQT, Báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của BKS”. Như vậy, những cổ đông nhỏ nắm giữ

≤10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty không được quyền tiếp cận những thông tin trên mà chỉ được tiếp cận thông tin trong phạm vi danh sách cổ


đông có quyền biểu quyết; Điều lệ công ty, sổ biên bản họp ĐHĐCĐ và các nghị quyết của ĐHĐCĐ. Rõ ràng quyền tiếp cận thông tin của tất cả các cổ đông theo LDN 2005 còn rất hạn chế, LDN nên có quy định mở rộng hơn nữa các đối tượng thông tin mà tất cả các cổ đông được quyền tiếp cận để đảm bảo sự minh bạch và công khai thông tin, tạo điều kiện cho tất cả các nhà đầu tư có thể đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, ngoài các đối tượng thông tin theo LDN 2005 quy định như trên nên mở rộng thêm quyền tiếp cận Báo cáo tài chính, quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty cho các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ để họ có thể đánh giá được hoạt động của doanh nghiệp một cách hữu hiệu và kịp thời hơn.

1.5. Về quyền khởi kiện của cổ đông

Theo phân tích thực trạng ở Chương II, LDNVN 2005 không có quy định về quyền của cổ đông trực tiếp khởi kiện HĐQT, quyền của cổ đông yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc tòa án hủy bỏ quyết định của HĐQT trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty, của cổ đông và của các bên có liên quan khác, cũng không quy định quyền của cổ đông yêu cầu toàn án xem xét miễn nhiệm thành viên HĐQT hoặc BKS trong trường hợp cần thiết. Vì vậy, cần thiết phải xem xét bổ sung quyền khởi kiện của cổ đông vào LDN nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nhỏ, tránh sự lạm dụng của các các cổ đông nắm quyền kiểm soát một cách trực tiếp.

Ngoài ra, cần phải chỉnh sửa và bổ sung cụ thể hơn quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ của cổ đông trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp ĐHĐCĐ như quy định tại điều 107 LDN 2005 để đảm bảo khả năng thực thi của pháp luật. Ngoài ra, cần phải lưu ý xem xét một vấn đề đáng quan tâm là: nếu ĐHĐCĐ đã thông qua một nghị quyết vi phạm pháp luật nghiêm trọng và đã trải qua 90 ngày theo quy định tại điều 107 LDN 2005 mà chưa có người khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết này thì nên chăng nghị quyết đó có hiệu lực pháp luật hay không? Nếu theo quy định trên thì nghị quyết đó vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên về nguyên tắc, một quyết định mà nội dung của nó trái với pháp


luật không thể nào có hiệu lực pháp luật, cho dù đã được thông qua trước một thời gian khá lâu.

1.6. Về cơ cấu cổ đông trong CTCP

Cần thiết phải xem xét lại quy định về cơ cấu cổ đông trong một CTCP. Theo quy định của LDN 2005, cơ cấu cổ đông của CTCP có sự tham gia của cô đông nhà nước. Cổ đông nhà nước có thể sở hữu đa số cổ phần để giữ vai trò cổ đông chi phối trong CTCP. Tuy nhiên, như phân tích thực trạng ở Chương II, trong các công ty cổ phần hóa từ DNNN, cổ đông nhà nước (thường là các đại diện của họ) hay lạm dụng quyền lực cũng như thực hiện quyền của công ty theo tư duy và phương thức cũ, trái với quy định của pháp luật về quyền của cổ đông. Cho nên, vấn đề đặt ra là liệu nhà nước có cần phải nắm giữ cổ phần chi phối trong một CTCP hay không? Thực trạng trên cho thấy việc quy định cơ quan nhà nước phải rút ra khỏi thị trường và hạn chế phạm vi hoạt động của các cơ quan nhà nước (như chỉ quản lý công cộng và cung cấp dịch vụ công cộng) là một điều kiện tiên quyết trong công cuộc lành mạnh hóa quản lý CTCP. Chính quyền nhà nước cần phải rút lui khỏi việc trực tiếp tham gia quản lý nội bộ của các CTCP. Tuy nhiên, ở Việt Nam mục tiêu này không dễ đạt được trong thời gian ngắn.

1.7. Về việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số

Việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số là một bài toán hết sức quan trọng trong việc quản lý CTCP. Như đã phân tích ở Chương II, so với LDN 1999, mặc dù LDN 2005 đã bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của các cổ đông thiểu số nhưng vẫn còn một số khiếm khuyết vì Luật chưa có những quy định cụ thể để bảo vệ cổ đông thiểu số, dẫn đến thực trạng quyền và lợi ích của họ không thực sự được bảo vệ trong thực tế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện các chế độ pháp lý để các cổ đông thiểu số có thể thực hiện thiết thực các quyền quản lý công ty và bảo vệ lợi ích của mình hơn nữa.

Để bảo vệ được lợi ích của các cổ đông thiểu số, trước hết phải dựa vào số lượng thông tin mà họ tiếp cận được, chất lượng của các thông tin, thời điểm, tính kịp thời của thông tin. Về quyền tiếp cận thông tin, như đã phân tích ở trên, LDN 2005 không quy định cổ đông nhỏ được quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ


sơ kế toán của công ty, báo cáo tài chính của công ty. Ngoài ra, xem xét những thông tin phải công bố theo quy định, LDN 2005 mới chủ yếu đề cập đến thông tin quá khứ, những thông tin công bố định kỳ về báo cáo tài chính hàng quý, những thông tin đột xuất mà công ty phải công bố. Riêng những thông tin đánh giá về tương lai của công ty như nhóm thông tin về HĐQT và nhóm thông tin về đánh giá của HĐQT về tương lai quản lý của công ty, thì hiện nay còn thiếu và các quy định của pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhóm thông tin đánh giá của HĐQT bao gồm thông tin về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác. Nhóm thông tin về HĐQT gồm các thông tin như: thành viên HĐQT sở hữu bao nhiêu phần trăm cổ phần trong công ty, năng lực kinh nghiệm của HĐQT, ai giới thiệu họ vào HĐQT. Những thông tin này rất quan trọng, không những giúp nhà đầu tư đánh giá được năng lực của đội ngũ HĐQT, mà còn đánh giá được tính khách quan, công bằng, vô tư không thiên vị trong hoạt động kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư thiểu số, hai nhóm thông tin về tương lai rất quan trọng. Bởi có những thông tin như vậy thì mọi giao dịch của công ty kể cả giao dịch chuyển nhượng cổ phần của thành viên HĐQT mới có thể được đánh giá một cách minh bạch và công bằng. Trong khi đó trong giới đầu tư hiện nay năng lực phân tích chưa đáp ứng được nhu cầu như kỳ vọng. Họ có thể còn thiếu hiểu biết về cách thức, công cụ cơ chế để có thể tự bảo vệ lấy lợi ích của mình.

Từ thực trạng trên, LDN cần thiết phải bổ sung cụ thể quyền yêu cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán, báo cáo tài chính của công ty cho các cổ đông nhằm đảm bảo các thông tin trong quá khứ được cung cấp đầy đủ. Đồng thời, các quy định trong LDN nên hướng theo những thông lệ quốc tế tốt nhất nhằm cung cấp cho các cổ đông nhỏ những thông tin trong tương lai về HĐQT và các đánh giá của HĐQT. Tuy nhiên việc sửa đổi luật như vậy chắc chắn sẽ mất một thời gian dài, nên để sớm bảo vệ các cổ đông thiểu số, cần thiết phải tập hợp họ lại thành Câu lạc bộ của nhà đầu tư thiểu số. Các câu lạc bộ này sẽ giúp họ có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nhiệm lẫn nhau, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình. Hiện ý tưởng thành lập Câu lạc bộ các cổ đông thiểu số đang được Hiệp hội các nhà

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 08/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí