Quản Lý Hoạt Động Kiểm Tra, Đánh Giá Quá Trình Học Tập Của Sv

Bảng 3. 11: : Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV


Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV

Đánh giá của GV

Đánh giá của SV

ĐTB

ĐLC

Thứ

bậc

ĐTB

ĐLC

Thứ

bậc

1. Lấy ý kiến phản hồi từ người học (theo định kỳ) về hoạt động giảng dạy của GV

và các dịch vụ hỗ trợ người học.


2,80


0,89


7


3,01


0,81


6

2. Xây dựng, triển khai hệ thống theo dõi sự tiến bộ của người học (tiếp tục học, ngừng học, thôi học, tỉ lệ tốt nghiệp/bỏ

học)


2,90


0,80


6


2,93


0,83


7

3. Nhà trường tổ chức lấy ý kiến phản hồi đối với SV chuẩn bị tốt nghiệp về chất

lượng đào tạo của khóa học


2,78


1,09


8


2,84


0,87


8

4. Quy trình, kế hoạch kiểm tra, đánh giá SV theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu

đánh giá năng lực của SV và ĐBCL đào tạo


2,95


0,78


5


3,03


0,84


4

5. Thông tin về hoạt động kiểm tra, đánh giá được thông báo công khai và phổ biến đến SV (các mốc thời gian; phương pháp kiểm tra, đánh giá; tỉ lệ phân bổ điểm;

bảng tiêu chí đánh giá và thang điểm)


3,31


0,82


1


3,15


0,76


1

6. Các phương pháp kiểm tra, đánh giá SV

có độ giá trị, độ tin cậy và đảm bảo sự công bằng


2,98


0,86


4


3,02


0,86


5

7. Thông tin phản hồi kết quả kiểm tra, đánh

giá được gửi kịp thời, đúng theo quy định của CTĐT


3,07


0,90


2


3,08


0,83


2

8. Có quy trình khiếu nại về kết quả kiểm tra,

đánh giá để SV dễ dàng tiếp cận và thực hiện khi có nhu cầu


3,00


0,86


3


3,07

0,74


3

Điểm trung bình nhóm

3,09

0,70


3,01

0,74


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 213 trang tài liệu này.

Quản lý chương trình đào tạo tại Học viện Ngân hàng theo hướng đảm bảo chất lượng - 14

Nguồn: Kết quả khảo sát thực tiễn của đề tài

Kết quả khảo sát cho thấy, GV và SV có đánh giá khác nhau nhưng đều khẳng định thông tin về hoạt động kiểm tra, đánh giá được thông báo công khai và phổ biến (các mốc thời gian; phương pháp kiểm tra, đánh giá; tỉ lệ phân bổ điểm; bảng tiêu chí đánh giá và thang điểm), (ĐTB lần lượt là 3,31 đạt mức tốt và 3,15 đạt

mức khá). Sở dĩ có sự đánh giá khác nhau là do một bộ phận SV ngẫu nhiên trong nhóm khách thể khảo sát chưa thực sự chuyên cần trong học tập nên không biết GV công bố các thông tin về kiểm tra, đánh giá. Một bộ phận nhỏ SV có tâm thế không đến lớp buổi học đầu tiên vì cho rằng buổi đầu chưa học nhiều. Đặc biệt, thông tin phản hồi kết quả kiểm tra, đánh giá được gửi kịp thời, đúng theo quy định của CTĐT (ĐTB lần lượt là 3,07 và 3,08) và HV có quy trình khiếu nại về kết quả kiểm tra, đánh giá để SV dễ dàng tiếp cận và thực hiện khi có nhu cầu (ĐTB lần lượt là 3,00 và 3,07). Kết quả này phản ánh sự chú trọng của nhà trường trong khâu kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV, đáp ứng các tiêu chuẩn trong kiểm định chất lượng CTĐT theo mô hình của AUN-QA.

Giảng viên và SV đều khẳng định các phương pháp kiểm tra, đánh giá SV có độ giá trị, độ tin cậy và đảm bảo sự công bằng (ĐTB lần lượt là 2,98và 3,02), đạt mức khá. Bên cạnh đó, HV có quy trình, kế hoạch kiểm tra, đánh giá SV theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu đánh giá năng lực của SV và ĐBCL đào tạo (ĐTB lần lượt là 2,95 và 3,01). Để có được kết quả này, từ đầu học phần GV luôn tuân thủ quy trình giảng dạy từ khâu giới thiệu môn học, giáo trình, tài liệu tham khảo, cách thức, quy định, thời gian trong kiểm tra, đánh giá SV, cách thức chấm điểm chuyên cần, quy định làm bài tập lớn (nếu có), quy định về đi thực tế doanh nghiệp… Vì vậy, tất cả SV đều nắm rõ chuẩn đầu ra của từng học phần ngay từ buổi đầu tiên, giúp SV tự xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với kế hoạch cá nhân. Về kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV cũng được tuân thủ theo đúng tuyên bố trong chuẩn đầu ra của từng học phần, phù hợp với Chuẩn đầu ra của mỗi CTĐT. Hằng năm, GV giảng dạy các nhóm môn đều phải rà soát lại hệ thống ngân hàng đề thi tại Phòng Thanh tra Khảo thí và ĐBCL, bổ sung thêm ngân hàng đề thi để đảm bảo mỗi học phần có tối thiếu 500 câu hỏi trắc nghiệm, tổng hợp/bài tập tình huống. Khâu làm đề thi luôn đảm bảo tính khoa học, bảo mật và rất khách quan nên trong thời gian qua, HV chưa xảy ra hiện tượng lộ đề thi kết thúc học phần hay thi tốt nghiệp ở tất cả các khóa, các hệ, các CTĐT.

Có sự đánh giá khác nhau về ĐTB giữa GV và SV trong nhóm khách thể khảo sát về việc Lấy ý kiến phản hồi từ người học (theo định kỳ) về hoạt động giảng dạy của GV và các dịch vụ hỗ trợ người học, có ĐTB lần lượt là 2,80 và 3,01.

SV cho rằng HVNH triển khai hoạt động này ở mức tốt, nhưng GV chưa thực sự hài lòng. Về đánh giá khác biệt này, Ng.Th. Tr chia sẻ việc phát phiếu lấy ý kiến phản hồi của người học vào cuối kỳ học của Phòng thanh tra Khảo thí và ĐBCL là hợp lý, để GV biết được ý kiến đánh giá từ người học và tự điều chỉnh, hoàn thiện về kiến thức, kỹ năng, thái độ, phương pháp. Tuy nhiên, việc phát phiếu lấy ý kiến của SV vào thời điểm chưa hợp lý (chuẩn bị kết thúc học phần) sẽ khó nói ra những suy nghĩ thực và việc lấy ý kiến phản hồi của người học mới chỉ đạt tỷ lệ quá thấp (1 kỳ, mỗi GV được chọn ngẫu nhiên và lấy ý kiến của 1 lớp). Tỷ lệ này chưa thực sự phản ánh tổng quan ý kiến phản hồi của người học về một vấn đề. Cũng tìm hiểu về nội dung này, thầy Ng.Th.H đưa ra quan điểm nếu cả kỳ chỉ phát phiếu lấy ý kiến SV có 1 lớp/1 GV mà GV nào khắt khe trong điểm danh, đánh giá SV thì kết quả phản hồi của một lớp đó chưa nói lên điều gì. Trên thực tế, SV hiện rất lười, chỉ muốn học ít, thầy/cô dễ tính và khi làm bài kiểm tra thì muốn được điểm cao… Nên để SV được chọn thì GV nghiêm khắc, giảng dạy chất lượng chưa chắc đã được chọn. Dưới giác độ của người học, V.B.Ng, SV năm 2 cho biết rất ít SV dám nói thật khi nhận phiếu đánh giá GV. Một lớp chỉ khoảng 20% số lượng SV trả lời trách nhiệm. Phần lớn SV có những điều chưa thực sự hài lòng. Khi được hỏi lý do, theo Ng đều là thầy/cô nên rất khó nói. Hơn nữa, phần lớn SV cũng không chú trọng lắm khi trả lời phiếu khảo sát. Rõ ràng, mỗi cá nhân đều có những quan điểm, suy nghĩ riêng về vấn đề lấy ý kiến phản hồi từ người học. Mỗi phương pháp đánh giá, quan sát đều có ưu, hạn chế nhất định, nhưng tác giả cho rằng, việc lấy ý kiến phản hồi từ người học vẫn là kênh thu thập thông tin tham khảo hữu ích trong đánh giá CLĐT.

Có sự đánh giá khá tương đồng giữa GV và SV các CTĐT trong xây dựng, triển khai hệ thống theo dõi sự tiến bộ của người học (tiếp tục học, ngừng học, thôi học, tỷ lệ tốt nghiệp/bỏ học) với ĐTB lần lượt là 2,90 và 2,93, đạt mức điểm khá. Đánh giá này là do GV và SV không thường xuyên cập nhật thông tin liên quan trên Website và cổng thông tin tuyển sinh. Cũng có thể do lỗi mạng hoặc do bộ phận quản lý của Phòng đào tạo chỉ cập nhật danh sách SV đủ điều kiện tốt nghiệp, SV ngừng học, thôi học theo năm chứ không tổng hợp các dữ liệu SV

tiếp tục học, ngừng học, thôi học, tỉ lệ tốt nghiệp/bỏ học tính theo khóa/năm học và thông báo công khai trên cổng thông tin.

Việc lấy ý kiến phản hồi đối với SV năm thứ 4 chuẩn bị tốt nghiệp các CTĐT cử nhân chính quy chưa được phòng Thanh tra Khảo thí và ĐBCL thực sự chú trọng. GV và SV năm thứ 4, trong nhóm khách thể khảo sát đều khẳng định nhà trường tổ chức lấy ý kiến phản hồi đối với SV chuẩn bị tốt nghiệp về CLĐT của khóa học chỉ đạt ở mức điểm thấp nhất, xếp thứ 8 trong thang đánh giá với mức ĐTB lần lượt là 2,78 và 2,84. kiến này thực sự rất có giá trị để từng bước điều chỉnh, cải tiến hoạt động đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu người học. Mặt khác, SV chuẩn bị tốt nghiệp đã trải qua tất cả các học phần, các kỳ đánh giá, sử dụng các dịch vụ hỗ trợ đào tạo, tiếp xúc với hầu hết các GV, cán bộ tham gia trong QTĐT, tư duy nhìn nhận vấn đề cũng khác so với SV năm thứ 1,2. Chính vì vậy, Học viện cần chú trọng để có được thông tin phản hồi từ nhóm SV chuẩn bị tốt nghiệp và sử dụng thông tin tham chiếu này trong quá trình cải tiến CTĐT theo hướng ĐBCL theo chuẩn khu vực và tiến tới đạt chuẩn quốc tế.

Có thể nói, kết quả khảo sát thực trạng Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV được GV và SV các CTĐT cử nhân được đánh giá là một trong những hoạt động đang thực hiện ở mức tốt, tuy vẫn còn một vài tiêu chí chưa được đánh giá cao. Trong quá trình QLĐT của trường đại học, để các CTĐT đạt chất lượng theo chuẩn khu vực và quốc tế thì quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá quá trình học tập của SV luôn là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu. Kết quả đánh giá đảm bảo tính khoa học, khách quan, công bằng, đúng năng lực người học, phản ánh đúng kiến thức, kỹ năng, thái độ của SV theo công bố trong chuẩn đầu ra của mỗi học phần, mỗi CTĐT. HVNH luôn chú trọng và tiếp tục cải tiến, hoàn thiện hướng đến đạt chất lượng kiểm định CTĐT khu vực và quốc tế.

3.5. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chương trình đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng tại Học viện Ngân hàng

3.5 1 Quy ịnh của Bộ Giáo d c và Đào tạo

Kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, tác giả đã xác định được 4 yếu tố ảnh hưởng đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại HVNH theo quan điểm đánh giá từ các chuyên gia, các nhà QLGD và đội ngũ cán bộ quản lý, GV.

Cụ thể, khi xem xét mức độ ảnh hưởng của Quy định của BGD&ĐT, hầu hết các GV đều cho rằng yếu tố này có ảnh hưởng ở mức trung bình (ĐTB = 2,25) theo cách quy ước trong nghiên cứu. Điều này có nghĩa, HV đã chủ động và tự tìm cách thức ứng dụng phù hợp với nguồn lực hiện có và không trái với các văn bản quy định của BGD & ĐT. Kết quả khảo sát cho thấy, tính linh hoạt của khung CTĐT áp dụng cho các trường đại học công lập là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất với ĐTB = 3,20.

Bảng 3. 12: Kết quả khảo sát mức độ ảnh hưởng từ Quy định của BGD&ĐT đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại Học viện Ngân hàng


Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo

ĐTB

ĐLC

Thứ

bậc

1. Hướng dẫn về tỷ lệ tín chỉ giữa các học phần cơ bản, cơ

sở ngành và chuyên ngành vẫn còn chung chung

2,20

0,860

2

2. Tính linh hoạt của khung CTĐT áp dụng cho các

trường đại học công lập

3,20

0,765

1

3. Giám sát, thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học đánh giá

chất lượng CTĐT

1,90

0,895

5

4. Biện pháp kiểm tra, giám sát kịp thời chất lượng CTĐT

đại học

1,94

0,835

4

5. Phê duyệt đề án tuyển sinh đầu vào chưa thực sự gắn

với nhu cầu nhân lực của xã hội.

1,99

0,837

3

Điểm trung bình nhóm

2,25

0,804


Nguồn: Kết quả khảo sát thực tiễn của đề tài

Bên cạnh đó, đội ngũ GV cho rằng BGD&ĐT hướng dẫn về tỷ lệ tín chỉ giữa các học phần cơ bản, cơ sở ngành và chuyên ngành vẫn còn chung chung (ĐTB = 2,20). Điều này ảnh hưởng ít nhiều đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL. Căn cứ vào Quyết định số 17/VBHN-BGDĐT của BGD&ĐT ban hành ngày 15/5/2014 về Quy chế ĐTĐH và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ CTĐT tại HVNH sẽ là 120 tín chỉ trong 4 năm đối với CTĐT đại học. Văn bản cũng chỉ rõ tỉ lệ giữa các học phần tự chọn và học phần bắt buộc, việc xây dựng cấu trúc CTĐT và các môn học trong CTĐT phụ thuộc vào quyết định của Hiệu trưởng/Giám đốc CSĐT, dẫn đến hiện tượng xuất hiện “lợi ích nhóm” giữa các Khoa, bộ môn khi lựa chọn các học phần trong cấu trúc CTĐT. Tuy nhiên, khi Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực và hướng dẫn của Thông tư 57, do BGD&ĐT ban hành về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ đã tạo sự chủ động rất nhiều cho các trường trong việc quyết định CTĐT. Với quy định mới này, các trường đại học, cao đẳng có cơ hội xây dựng CTĐT với những nội dung mới; tham khảo, sử dụng các CTĐT của các trường có uy tín, tiên tiến trên thế giới.

Các khách thể tham gia khảo sát cũng cho rằng, việc phê duyệt đề án tuyển sinh đầu vào của BGD&ĐT đôi khi chưa thực sự gắn với nhu cầu nhân lực của XH (ĐTB = 1,99). Mặc dù, đây chỉ là nguyên nhân có ảnh hưởng ở mức thấp trong thang đánh giá nhưng các trường đại học khi xây dựng Đề án tuyển sinh đều có xu hướng mong muốn tuyển được nhiều SV cho đủ chỉ tiêu tuyển sinh mà chưa khảo sát, đánh giá hàng năm nhu cầu nhân lực của thị trường và các dự báo những năm tiếp theo để có cơ sở xây dựng kế hoạch tuyển sinh, phân bổ chỉ tiêu phù hợp với từng CTĐT. Vì vậy, nếu BGD&ĐT có các dữ liệu khảo sát nhu cầu nhân lực hàng năm, dự báo cung – cầu nhân lực các năm tiếp theo và căn cứ vào Đề án tuyển sinh của các CSGD đào tạo đại học trình BGD&ĐT phê duyệt chỉ tiêu tuyển sinh hoặc định hướng chỉ tiêu cho các trường sẽ hiệu quả và phù hợp hơn với nhu cầu XH. Theo quan sát của cán bộ, GV, biện pháp kiểm tra, giám sát kịp thời chất lượng CTĐT đại học (ĐTB = 1,94) và giám sát, thúc đẩy các cơ sở GDĐH đánh giá chất lượng CTĐT (ĐTB = 1,90) cũng là các yếu tố có tác động đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại HVNH.

3.5.2. Tầm nhìn/ chiến lược của Ban lãn ạo Học viện Ngân hàng

Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết GV, cán bộ QLĐT trong mẫu khách thể khảo sát đều khẳng định yếu tố này có ảnh hưởng nhiều đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại HVNH với ĐTB nhóm = 3,28, đạt mức có ảnh hưởng cao. (Xem Bảng 3.13).

Bảng 3. 13: Kết quả khảo sát mức độ ảnh hưởng từ tầm nhìn của Ban lãnh đạo Học viện đến quản lý CTĐT theo hướng đảm bảo chất lượng

Tầm nhìn của Ban lãnh đạo Học viện


ĐTB

ĐLC

Thứ

bậc

1. Chú trọng hoàn thiện các tiêu chí kiểm định chất lượng CTĐT

3,22

0,669

4

2. Triển khai các hoạt động nâng cao chất lượng CTĐT mang tính

liên tục và hệ thống

3,47

0,656

1

3. Giải pháp quyết liệt thể hiện sự cam kết, quyết tâm trong cải

tiến chất lượng CTĐT

3,15

0,647

5

4. Triển khai quyết liệt xây dựng CTĐT gắn với yêu cầu thực tiễn

3,28

0,642

3

5. Chỉ đạo xây dựng được kênh tiếp nhận thông tin phản hồi khách quan từ SV sau tốt nghiệp và từ các tổ chức sử dụng nhân

sự đào tạo tại HVNH.


3,29


0,724


2

Điểm trung bình nhóm

3,28

0,701


Nguồn: Kết quả khảo sát thực tiễn của đề tài

Cụ thể, trong các yếu tố trên, nhóm khách thể khảo sát khẳng định, việc triển khai các hoạt động nâng cao chất lượng CTĐT mang tính liên tục và hệ thống có ảnh hưởng cao nhất đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại HVNH, với ĐTB = 3,47. Điều này cho thấy, Ban Giám đốc cần giao nhiệm vụ quyết liệt, phối kết hợp giữa Phòng Thanh tra Khảo thí & ĐBCL với Phòng Đào tạo và các Khoa chuyên ngành để triển khai đồng bộ các biện pháp trên cơ sở các tiêu chí đánh giá chất lượng CTĐT theo chuẩn của AUN – QA. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các cơ sở GDĐH trong nước và trên thế giới, việc quản lý CTĐT đảm bảo chất lượng phải được xem là yêu cầu sống còn đối với một trường đại học theo tiêu chuẩn KĐCLGD của BGD&ĐT và tiêu chuẩn của mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á. Trên thực tế, chỉ có kiểm định chất lượng CTĐT mới giúp cán bộ,

GV và Ban lãnh đạo xem xét lại toàn bộ hoạt động một cách có hệ thống để điều chỉnh theo chuẩn mực nhất định, từ đó nhà trường sẽ có chiến lược, kế hoạch, định hướng và chỉ đạo phù hợp các phòng, khoa chuyên ngành, nhằm xác định chuẩn chất lượng cho từng hoạt động.

Hơn nữa, phần lớn GV trong nhóm khách thể khảo sát cho rằng, việc chỉ đạo xây dựng kênh tiếp nhận thông tin phản hồi khách quan từ SV sau tốt nghiệp và từ các tổ chức sử dụng nhân sự đào tạo tại HVNH và triển khai quyết liệt xây dựng CTĐT gắn với yêu cầu thực tiễn có ảnh hướng lớn đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL, với ĐTB lần lượt là 3,29 và 3,28. Hiện các CTĐT vẫn chưa thực sự cân đối giữa lý thuyết với thực hành, chưa gắn với yêu cầu công việc sau khi tốt nghiệp của người học. Nếu xây dựng CTĐT chỉ căn cứ trên sự hiểu biết và phỏng đoán của GV và kinh nghiệm của các trường tiên tiến khác, chúng tôi cho rằng chưa thực sự đủ bởi thông tin rất hữu ích giúp nhà trường xây dựng CTĐT chất lượng, đáp ứng thực tiễn phải xuất phát từ chính nhu cầu của các tổ chức sử dụng lao động và kết quả đánh giá từ phía sử dụng lao động khi họ có các nhân sự là SV cũ của HVNH. Để có cách nhìn đa chiều và thực tiễn trong cải cách, sửa đổi CTĐT đòi hỏi nhận được sự đồng thuận của tất cả các tổ chức sử dụng lao động và sự chỉ đạo quyết liệt các phòng ban, liên quan đến thực hiện khảo sát đánh giá người học sau khi tốt nghiệp. Vì vậy, trước khi xây dựng hoặc sửa đổi CTĐT, buộc nhà trường phải khảo sát ý kiến của doanh nghiệp, của các tổ chức sử dụng nhân sự để điều chỉnh chuẩn đầu ra cho phù hợp với yêu cầu. Trên cơ sở chuẩn đầu ra, sẽ xây dựng CTĐT và tiếp tục lấy ý kiến các tổ chức sử dụng nhân sự trước khi ban hành.

Bên cạnh đó, chú trọng hoàn thiện các tiêu chí kiểm định chất lượng CTĐT có ảnh hưởng ở mức tương đối lớn đến quản lý CTĐT theo hướng ĐBCL tại HVNH, với ĐTB = 3,22. Trên thực tế, bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng CTĐT hiện nay đều dựa trên Bộ tiêu chuẩn do BGD&ĐT ban hành và Bộ tiêu chuẩn của AUN-QA. Trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc thực hiện kiểm định các CTĐT mang lại nhiều lợi ích cho nhà trường. Bên cạnh việc xem xét một cách tổng thể các hoạt động để thấy được điểm mạnh, điểm yếu của các CTĐT, kết quả kiểm định chất lượng CTĐT là lời tuyên bố tới các bên liên quan về hiện trạng chất

Xem tất cả 213 trang.

Ngày đăng: 30/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí