2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Hệ thống một số vấn đề lý luận về ĐDTPL của doanh nghiệp bao gồm: khái niệm; bản chất; vai trò ĐDTPL của doanh nghiệp; các lý thuyết pháp lý cơ bản có liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Tìm hiểu mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới và sự ảnh hưởng của các lý thuyết pháp lý cơ bản liên quan đến đại diện của doanh nghiệp. Lý giải được những điểm giống và khác nhau giữa quy định của pháp luật các quốc gia về vấn đề này.
- Phân tích quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam. Qua đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và thực hiện pháp luật, đánh giá nguyên nhân của các hạn chế đó .
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp trong BLDS, LDN, LPS trong thời gian tới.
- Kiến nghị những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án hướng đến đối tượng nghiên cứu là:
Có thể bạn quan tâm!
- Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 1
- Mô Hình Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Đại Diện Theo Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp
- Những Vấn Đề Luận Án Tiếp Thu Và Tiếp Tục Phát Triển
Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.
- Các lý thuyết pháp lý cơ bản đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước công bố liên quan đến đại diện của doanh nghiệp, bao gồm các lý thuyết về bản chất pháp lý của doanh nghiệp và các lí thuyết về đại diện.
- Các quan điểm khoa học về nguyên tắc pháp lý trong từng vấn đề chi tiết có liên quan đến mô hình ĐDTPL như: phạm vi thẩm quyền, bảo vệ quyền lợi người thứ ba trong giao dịch vượt quá thẩm quyền do người đại diện của doanh nghiệp xác lập, quyền và nghĩa vụ cũng như có chế giám sát người đại diện.
- Các quy định của pháp luật của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Trung Quốc về ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Các quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay về ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu về ĐDTPL của doanh nghiệp với phạm vi hẹp là hình thức đại diện được pháp luật chỉ định có quyền nhân danh cho doanh nghiệp thực hiện các giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm với cơ quan nhà nước, với các bên thứ ba. Những người đại diện khác của doanh nghiệp như: đại diện thương mại độc lập hay đại lý, nhân viên đại diện cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. Do đó, trong luận án, thuật ngữ người đại diện của doanh nghiệp được đề cập chính là người ĐDTPL. Bên cạnh đó, phạm vi doanh nghiệp được xác định gồm các loại hình công ty (Công ty TNHH, CTCP, CTHD), không bao gồm doanh nghiệp tư nhân bởi xét về bản chất, đây là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ đồng thời là người ĐDTPL.Do đó, nghiên cứu về ĐDTPL của DNTN không phù hợp với bản chất quan hệ đại diện: người đại diện hoạt động nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện. Thuật ngữ doanh nghiệp trong luận án này được hiểu giới hạn là các loại hình công ty. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật doanh nghiệp được xác định bao gồm LDN và LPS bởi các văn bản luật này quy định về tổ chức hoạt động và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu về không gian
Nghiên cứu về lí luận và các quy định của pháp luật về ĐDTPL được tác giả nghiên cứu trong phạm vi rộng, bao gồm quy định của pháp luật một số quốc gia theo hệ thống pháp luật thông luật (Comon Law) với đại diện là Anh, Mỹ; hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law) với đại diện là Pháp, Đức, Nhật và quốc gia pháp luật xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc. Việc nghiên cứu pháp luật của các nước được nghiên cứu điểm xuyết theo từng chủ đề chỉ nhằm mục đích so sánh, tham khảo kinh nghiệm, còn Luận án cơ bản chỉ tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian
Thời gian thực hiện đề tài từ năm 2016 đến nay, do đó, Luận án nghiên cứu quy định của pháp luật về đại diện trong văn bản pháp luật doanh nghiệp có hiệu lực trong thời gian đó, bao gồm BLDS năm 2015, LDN năm 2014, LPS năm 2014, LDN năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) và các văn bản dưới
luật hướng dẫn các văn bản luật trên. Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện pháp luật liên quan đến ĐDTPL được nghiên cứu theo mốc thời gian từ năm 2016 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Luận án kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến như:
- Phương pháp mô tả, phương pháp tổng hợp là các phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng tại Chương 1 nhằm trình bày những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đại diện của doanh nghiệp.
- Phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ tìm hiểu ưu, nhược điểm của các quy định của pháp luật liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp.
- Phương pháp phân tích, phương pháp luật học so sánh và phân tích tình huống thực tiễn được sử dụng thường xuyên tại Chương 3, Chương 4 nhằm làm nổi bật tình hình thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp và nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
5. Những điểm mới của luận án
- Luận án hệ thống hóa những lý thuyết pháp lý hiện nay ảnh hưởng đến việc xác định mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp. Lý thuyết được tập trung nghiên cứu gồm:
Các lý thuyết về bản chất pháp lý của doanh nghiệp: lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory), Lý thuyết hiện thực (Realistic Theory); lý thuyết hợp đồng (Nexus of Contract), Lý thuyết tổ chức (Organic Theory), lý thuyết về đại diện (Agency Theory) có liên quan đến vấn đề đại diện của doanh nghiệp.
Luận án hệ thống hóa nội dung của các lý thuyết nhằm lý giải cơ sở lý luận lý giải mô hình ĐDTPL trong quy định của pháp luật doanh nghiệp một số quốc gia. Từ nền tảng lý luận này, luận án làm rò mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp hiện tại của Việt Nam gần với cơ sở lý thuyết nào và đánh giá các ưu, nhược điểm của quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được làm rò. Những lý thuyết và nguyên tắc này là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam.
- Luận án phân tích thực trạng quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay về các khía cạnh liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp như: điều kiện trở thành người ĐDTPL, thẩm quyền đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, cơ chế giám sát và trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL. Các vấn đề trên được phân tích từ các quy định của pháp luật doanh nghiệp là LDN năm 2014, LDN năm 2020 và có sự liên hệ với quy định trong BLDS năm 2015, LPS năm 2014 bởi BLDS quy định chung về quan hệ đại diện của pháp nhân và LPS quy định về cách thức chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Các vấn đề này cũng được nghiên cứu trong sự đối sánh với quy định tương tự trong pháp luật một số nước trên thế giới. Cụ thể là:
(i) Luận án chỉ ra những điểm hạn chế trong việc xác định thẩm quyền đại diện, phân định thẩm quyền đại diện trong trường hợp có nhiều người ĐDTPL dẫn tới sự xung đột thẩm quyền và gây thiệt hại cho người thứ ba.
(ii) Luận án làm rò quy định của pháp luật về trách nhiệm của người ĐDTPL của doanh nghiệp và doanh nghiệp đối với bên thứ ba (nhất là trong bối cảnh quy định của BLDS năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung so với BLDS năm 2005) nhằm đề xuất thay đổi theo hướng bảo vệ tốt hơn cho người thứ ba ngay tình.
(iii) Trên cơ sở phân tích và làm rò những quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL, luận án chỉ ra những điểm cần bổ sung trong LDN, LPS nhằm hoàn thiện cơ chế giám sát hoạt động của người ĐDTPL.
- Luận án làm rò một số vướng mắc từ thực tiễn thực hiện pháp luật liên quan đến ĐDTPL. Từ đó, kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh LDN năm 2020 mới có hiệu lực thi hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lí luận, luận án đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận gồm các lý thuyết là cơ sở cho quan hệ ĐDTPL của doanh nghiệp, các yếu tố trong mô hình đại diện của doanh nghiệp, bao gồm: chức danh người ĐDTPL trong cơ cấu quản trị doanh nghiệp, phạm vi thẩm quyền đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, cơ chế kiểm soát quyền hạn của người đại diện đặc biệt trong bối cảnh mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều người ĐDTPL. Những vấn đề trên được so sánh với pháp luật của một số nước nhằm làm rò ưu, nhược điểm của
quy định của pháp luật Việt Nam và rút ra những kinh nghiệm mang tính gợi mở cho việc hoàn thiện quy định của pháp luật.
- Về thực tiễn: từ việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp thông qua những vụ việc, tranh chấp, luận án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Đây sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các nhà nghiên cứu; người quản lý doanh nghiệp… trong hoạt động nghiên cứu và làm việc. Các thông tin được hệ thống trong Luận án có giá trị là tài liệu giảng dạy và học tập hữu ích trong chuyên ngành Luật kinh tế.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Chương 4: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
Quan hệ đại diện nói chung cũng như mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp nói riêng đã được nhắc đến trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý trong và ngoài nước. Sở dĩ đây là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm là bởi quan hệ này gắn bó chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn tới đời sống dân sự, thương mại của các chủ thể nhất là các doanh nghiệp.
Có thể chia các công trình nghiên cứu liên quan đến đại diện và mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp của các học giả trong nước và ngoài nước thành các nhóm sau:
1.1.1. Các nghiên cứu về lý thuyết pháp lý liên quan đến vấn đề đại diện của doanh nghiệp
Có nhiều lý thuyết pháp lý liên quan đến bản chất pháp lý của công ty. Đó là các lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory), lý thuyết hiện thực (Realistic Theory), lý thuyết mục đích (Purpose Theory), lý thuyết biểu tượng (Symbol Theory), lý thuyết nhượng bộ (Concession Theory), lý thuyết tổ chức (Organic Theory) và lý thuyết hợp đồng (Nexus of Contract). Tác giả Ngô Huy Cương trong Giáo trình Luật Thương mại phần chung và thương nhân [9,tr 166], tác giả Nguyễn Ngọc Điện trong Giáo trình Luật Dân sự tập 1 - Tổng quan [18, tr 110- 112]; Martin Petrin trong bài viết “Reconceptualizing the Theory of the Firm - From Nature to Function” (Nhận thức lý thuyết về công ty - từ bản chất đến chức năng) [77] và Mayank Shekhar trong “Theories juristic personality” (Các lý thuyết về tư cách pháp nhân)[78] đã hệ thống hóa, giới thiệu về các lý thuyết đó khá đầy đủ. Theo đó:
Lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory) được đề cập từ thế kỷ XIX, được nhiều luật gia nổi tiếng ủng hộ, đặc biệt là Von Savigny, Coke, Blackstone và Salmond [78]. Theo lý thuyết này, pháp nhân là một thực thể nhân tạo được pháp luật tạo dựng nhằm tạo thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ giữa nhóm với người thứ ba. Hay nói cách khác, pháp nhân không tự tồn tại mà sự xuất hiện của nó chỉ có thể xảy ra khi có lệnh hoặc được sự cho phép của cơ quan công quyền. Doanh nghiệp với tư cách pháp nhân được nhìn nhận là một thực thể hư cấu thiếu ý chí
và khả năng phán đoán, khả năng hành động độc lập theo ý chí của nó. Do đó, doanh nghiệp phải có người đại diện – chủ thể có thẩm quyền, địa vị pháp lý theo luật định nhằm thực hiện hành động của doanh nghiệp. Hệ quả tiếp theo là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân không có khả năng chịu trách nhiệm pháp lý ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm hình sự, các cá nhân có liên quan trực tiếp phải chịu trách nhiệm về các hành động vi phạm pháp luật hình sự [9,tr 166], Evgenij Smirnov, Oleg Jastrebov trong nghiên cứu của mình về “Value of the Fiction Theory for Understanding the “Legal Person” (Giá trị của lý thuyết giả tưởng để hiểu về pháp nhân) đã bình luận: Lý thuyết này đã đặt cơ sở lý luận cho việc phải đăng ký danh tính doanh nghiệp trong quy định của pháp luật tư [69, tr 912].
Theo lý thuyết nhượng bộ (Concession Theory), sự tồn tại của công ty xuất phát từ sự nhượng bộ của nhà nước. Lý thuyết nhượng bộ thường được coi là con đẻ của lý thuyết giả tưởng vì theo nội dung đó thì các công ty không có tư cách pháp nhân trừ khi được nhà nước thừa nhận. Hay nói cách khác, chỉ những chủ sở hữu hoặc những người đầu tư có đặc quyền kinh doanh và họ đã nhượng quyền đó cho công ty khi được Nhà nước công nhận[9,tr 167], [78].
Tương tự như các lý thuyết giả tưởng và nhượng bộ, lý thuyết mục đích (Purpose Theory) tuyên bố rằng chỉ con người mới có thể là chủ thể của pháp luật và có năng lực. Pháp nhân hoàn toàn không phải là con người, không được xây dựng quanh một nhóm người mà chỉ dựa trên mục đích cụ thể. Tài sản của pháp nhân không thuộc về bất kỳ ai nhưng có thể bị ràng buộc bởi một số quy định nhất định [9,tr 167].
Lý thuyết biểu tượng ((Symbol Theory) “xem công ty là một biểu tượng cho sự liên kết của những cá nhân tạo thành công ty” [9, tr167], đó là các thành viên và người đại diện của nó. Hay nói cách khác, những người đại diện cho công ty và công ty là một. Quan điểm này phù hợp với nguyên tắc vén bức màn công ty (lifting of the corporate veil). Theo đó, trong một số trường hợp Tòa án sẽ phá bỏ hoặc vén bức màn công ty (chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản) và xem xét những người đứng sau công ty, những người thực sự hưởng lợi từ sự hư cấu của công ty [96].
Trái ngược với các lý thuyết này, lý thuyết hiện thực (Realistic Theory) quan niệm pháp nhân tồn tại trên thực tế một cách khách quan và luật pháp chỉ đơn thuần công nhận sự tồn tại đó. “Nhóm có ý chí riêng của mình, phân biệt ý chí với các thành viên và chính ý chí đó là cơ sở của quan niệm về chủ thể của quan hệ pháp luật: cá nhân có ý chí, vậy cá nhân có ý chí là chủ thể của quyền và nghĩa vụ , nhóm cũng có ý chí, vậy nhóm cũng là chủ thể của quyền và nghĩa
vụ, với tư cách là một pháp nhân” [18, tr111].
Lý thuyết tổ chức (Organic Theory) tương tự với lý thuyết hiện thực khi quan niệm rằng: Doanh nghiệp là một thực thể tồn tại trên thực tế, có ý chí và hành động thông qua các cá nhân là các cơ quan của nó, tương tự như con người tự nhiên. Chính sự tổ chức chặt chẽ của pháp nhân khiến cho hoạt động của nó mang dáng dấp của hoạt động một thực thể sống có khả năng nhận thức, tự điều khiển, giống như một cá nhân. Do đó, trong doanh nghiệp, các cơ quan của công ty, cụ thể là HĐQT và ĐHĐCĐ, khi hành động trong giới hạn quyền hạn do Điều lệ công ty quy định, không chỉ được coi là đại diện của công ty mà còn được coi là chính công ty đang hành động [87]. Phân tích này được học giả Ross Grantham đề cập trong bài viết “Attributing Responsibility to Corporate Entities: A Doctrinal Approach” (Trách nhiệm pháp lý đối với doanh nghiệp: cách tiếp cận khoa học)
Lý thuyết mối liên hệ hợp đồng (Nexus of Contract) cho rằng công ty là một giả tưởng pháp lý bao gồm mạng lưới các quan hệ hợp đồng giữa những người liên quan với nhau như nhà đầu tư, người cung cấp nguyên vật liệu, vốn, người lao động cũng như các khách hàng. Theo lý thuyết này, những người điều hành công ty được xem là nhân vật trung tâm có chức năng kết hợp các nguồn lực để tiến hành các hoạt động mạng lại lợi ích tối đa” [9, tr167].
Về cơ bản, các lý thuyết giải thích về bản chất của công ty, về tư cách pháp nhân của công ty tập trung vào hai lý thuyết trái ngược nhau: lý thuyết giả tưởng và lý thuyết hiện thực [18,tr 110]. Còn có nhiều lý thuyết khác song mỗi lý thuyết chỉ chiếm một vị trí nhất định trong việc giải thích và không bao trùm được toàn bộ [9, tr 168]. “Luật Việt Nam đang tìm cách xây dựng không hẳn là một quan niệm thứ ba, mà đúng hơn là kết quả sự vận dụng các quan niệm sẵn có trong hoàn cảnh Việt Nam”. “Pháp nhân trong luật Việt Nam không phải là