Phân Loại Chi Ngân Sách Địa Phương Theo Chức Năng


CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM

VỀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG


1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG

1.1.1. Khái niệm chi ngân sách địa phương

Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính tập trung vào NSNN để trang trải những nhu cầu chi duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước phù hợp với từng giai đoạn phát triển KTXH.

Hệ thống NSNN của các quốc gia được tổ chức phù hợp với tổ chức hệ thống chính quyền nhà nước các cấp; gồm NSTW và NSĐP. NSĐP là ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước ở địa phương.

Chi NSĐP là quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính tập trung vào NSĐP để trang trải những nhu cầu chi duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy chính quyền và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương theo đơn vị hành chính phù hợp với từng giai đoạn phát triển KTXH [10].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.

Theo hình thức biểu hiện, chi NSĐP là toàn bộ các khoản chi của chính quyền địa phương được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, do cơ quan nhà nước địa phương có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

Theo chu trình ngân sách, chi NSĐP là quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính được tập trung vào NSĐP từ các khoản thu của chính quyền địa phương để đáp ứng các nhu cầu chi thực hiện các chức năng và nhiện vụ của chính quyền địa phương trong từng thời kỳ.

Quản lý chi ngân sách nhà nước tỉnh Viêng Chăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 4

NSĐP là công cụ tài chính của chính quyền địa phương, phục vụ thực hiện các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của chính quyền địa phương trong từng thời kỳ. Chức năng và nhiệm vụ của chính quyền địa phương quyết định đến nhiệm vụ chi NSĐP, các nhu cầu chi được bảo đảm bằng nguồn tài chính NSĐP là các nhu cầu chi thuộc nhiệm vụ chi NSĐP.


Quá trình phân bổ các nguồn tài chính để đáp ứng các nhiệm vụ chi NSĐP thực chất là quá trình xây dựng, quyết định, phân bổ kế hoạch chi NSĐP trung hạn và dự toán chi NSĐP hàng năm. Quá trình sử dụng NSĐP chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách được giao, đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSĐP, chủ đầu tư hay người ủy quyền quyết định chi.

Cơ quan tài chính, KBNN có trách nhiệm kiểm tra kiểm soát và thanh toán đầy đủ, kịp thời theo tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chi NSĐP đã bố trí trong dự toán. Thủ trưởng cơ quan tài chính, KBNN có quyền từ chối các khoản chi NSĐP không đủ điều kiện chi theo quy định, chịu trách nhiệm về quyết định của mình và phải thông báo kịp thời cho các đơn vị sử dụng ngân sách biết. Cơ quan tài chính có trách nhiệm bảo đảm nguồn ngân sách để thanh toán kịp thời các khoản chi NSĐP theo dự toán. KBNN có trách nhiệm thực hiện xuất quỹ NSĐP, thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản chi NSĐP đủ điều kiện chi và khi đó các nguồn tài chính tập trung vào quỹ NSĐP được sử dụng để trang trải các nhu cầu chi ngân sách theo dự toán được giao.

1.1.2. Đặc điểm chi ngân sách địa phương

Thứ nhất, chi NSĐP là chi tiêu công của quốc gia.

NSĐP là bộ phận cấu thành của NSNN. Nhà nước là chủ thể của NSNN. NSNN nói chung và NSĐP nói riêng được hình thành từ các khoản thu do các chủ thể trong xã hội nộp vào NSNN, NSĐP. Nhà nước và chính quyền địa phương đại diện cho người dân thực hiện các khoản chi NSNN, NSĐP phục vụ cho lợi ích chung của người dân.

Các nhiệm vụ chi NSNN, NSĐP về quốc phòng, an ninh, quản nhà nước, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, ngoại giao, đầu tư cơ sở hạ tầng KTXH… nhằm cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công cộng cho xã hội và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội nhằm bảo đảm hiệu quả, công bằng và ổn định KTXH của quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng.

Thứ hai, chi NSĐP có quy mô lớn và phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp, gắn với bộ máy nhà nước và các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương trong từng thời kỳ.


Gắn với chức năng của chính quyền địa phương, chi NSĐP thực hiện ở nhiều lĩnh vực KTXH như quốc phòng; an ninh và trật tự an toàn xã hội; giáo dục - đào tạo và dạy nghề; khoa học và công nghệ; y tế, dân số và gia đình; văn hóa thông tin; phát thanh, truyền hình, thông tấn; thể dục thể thao; bảo vệ môi trường; hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước…; với nhiều khoản chi có tính chất KTXH khác nhau như chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên…; liên quan đến nhiều chủ thể trong xã hội. Tổ chức bộ máy và các nhiệm vụ cụ thể của chính quyền địa phương, sự lựa chọn cung ứng hàng hóa công cộng của của chính quyền địa phương nói riêng và của Nhà nước nói chung trong từng thời kỳ có tác động trực tiếp đến quy mô, phạm vi và cơ cấu chi NSĐP.

Thứ ba, chi NSĐP không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.

Cũng như chi NSNN, tính chất không hoàn trả trực tiếp của chi NSĐP xuất phát từ đặc tính của hàng hóa công cộng. Các khoản chi NSĐP cấp cho các đơn vị sử dụng ngân sách chủ yếu để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao và các đơn vị sử dụng ngân sách không phải hoàn trả số ngân sách đã sử dụng cho chính quyền địa phương khi đã hoàn thành nhiệm vụ chi được giao.

Thứ tư, hiệu quả chi NSĐP là hiệu quả KTXH vĩ mô.

Chi NSĐP là bộ phận cấu thành của chi NSNN. Chi NSĐP là công cụ tài chính nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước theo đơn vị hành chính. Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội… Giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích như lợi ích quốc gia, lợi ích từng địa phương, lợi ích chung của xã hội và lợi ích của từng chủ thể trong nền kinh tế; trong đó, lợi ích quốc gia và lợi ích chung của toàn xã hội được đặt lên hàng đầu, lợi ích của từng địa phương và lợi ích của từng chủ thể là động lực thúc đẩy sự phát triển của từng địa phương, quốc gia và của toàn xã hội.

Mọi chủ thể luôn quan tâm đến chi phí bỏ ra và lợi ích đạt được khi thực hiện các khoản chi ngân sách của mình. Tư nhân quan tâm chủ yếu đến lợi ích của chính họ và chi phí trực tiếp bỏ ra, ít quan tâm đến lợi ích chung và chi phí của xã hội như chi phí khắc phục ô nhiễm môi trường, chi phí giảm nghèo, quốc phòng… Trái lại, gắn với


chức năng và việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, Nhà nước và chính quyền địa phương luôn phải quan tâm đến lợi ích tổng thể về chính trị, kinh tế, xã hội ở tầm vĩ mô và chi phí của toàn xã hội, trong đó có chi phí do Nhà nước và chính quyền địa phương bỏ ra khi thực hiện các khoản chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng nhằm đạt được mục tiêu ổn định, công bằng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, sự phát triển của từng địa phương.

1.1.3. Phân loại chi ngân sách địa phương

Phân loại chi NSĐP tuân thủ phân loại chi NSNN. Phân loại chi NSNN là việc sắp xếp các khoản chi NSNN theo những tiêu chí nhất định để hạch toán, thống kê, tổng hợp thông tin về chi NSNN đáp ứng yêu cầu hoạch định chính sách và tổ chức quản lý chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng.

Chi NSNN được phân loại nhiều tiêu thức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho các mục đích khác nhau trong việc hoạch định chính sách và tổ chức quản lý chi NSNN ở từng thời kỳ phát triển KTXH của quốc gia. Mỗi quốc gia có những tiêu chi phân loại chi ngân sách khác nhau. Hệ thống chi NSNN áp dụng phổ biến ở các quốc gia là phân loại theo chức năng của chính phủ (COFOG) do liên Hợp quốc xây dựng và phân loại theo nội dung kinh tế trong hệ thống thống kê tài chính chính phủ (GFS) do quỹ tiền tệ quốc tế xây dựng. Ngoài ra, tùy theo các yêu cầu thông tin khác nhau phục vụ trong hoạch định chính sách và quản lý, chi NSNN có thể được phân loại theo các chi tiêu khác nhau: (i) Phân loại chi NSNN theo tổ chức, (ii) Phân loại chi NSNN theo chức năng, (iii) Phân loại chi NSNN theo nội dung kinh tế, (iv) Phân loại chi NSNN theo chương trình, mục tiêu và dự án quốc gia, (v) Phân loại chi NSNN theo nguồn hình thành ngân sách, (vi) Phân loại chi NSNN theo cấp ngân sách… Đối với chi NSĐP, phân loại theo chức năng hay lĩnh vực hoạt động KTXH và phân loại theo nội dung kinh tế là những tiêu thức phân loại có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý chi NSĐP.

1.1.3.1. Phân loại chi ngân sách địa phương theo chức năng

Theo chức năng của nhà nước và chính quyền địa phương, các khoản chi NSĐP được sắp xếp theo lĩnh vực KTXH, bao gồm các loại và khoản. Loại phản ánh các khoản chi NSĐP theo từng lĩnh vực KTXH. Khoản phản ánh các khoản chi


NSĐP theo từng ngành kinh tế quốc dân được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Phân loại theo chức năng nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho phân tích lịch sử và hoạch định chính sách chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng.

Chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng thường được phân loại theo các loại như: Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, giáo dục, đào tạo và thể thao, khoa học và công nghệ, y tế, dân số, gia đình, văn hóa thông tin, phát thanh, tuyền hình, thông tấn, bảo vệ môi trường, các hoạt động kinh tế, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, Đảng, Đoàn thể, bảo đảm xã hội, tài chính và khác, chuyển giao, chuyển nguồn. Mỗi loại được chia thành các khoản. Ví dụ: Loại giáo dục, đào tạo và thể thao bao gồm các khoản như giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở… Loại y tế, dân bệnh và chữa bệnh, sự nghiệp gia đình, dân số [10].

1.1.3.2. Phân loại chi ngân sách địa phương theo nội dung kinh tế

Theo nội dung kinh tế, các khoản chi NSĐP được sắp xếp các mục, tiểu mục, tiểu nhóm và nhóm. Mục phản ánh các khoản chi NSĐP theo các nội dung kinh tế được quy định trong các chính sách, chế độ chi NSNN; ví dụ như tiền lương, tiền công, trả cho vị trí lao động thường xuyên theo hợp đồng, phụ cấp lương, thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng… Tiểu mục phản ánh chi tiết các khoản chi NSĐP theo yêu cầu quản lý cụ thể từng mục. Tiểu nhóm phản ánh tập hợp các mục có tính chất giống nhau theo yêu cầu quản lý. Nhóm phản ánh tập hợp các tiểu nhóm có tinh chất giống nhau theo yêu cầu quản lý.

Chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng thường có các nhóm chủ yếu như CTX, chi ĐTPT; chi khác như chi cho vay, góp vốn…

Thứ nhất, CTX NSĐP.

Theo hình thực biểu hiện, CTX NSĐP là toàn bộ các khoản chi của chính quyền địa phương được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước địa phương có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên hằng năm của chính quyền địa phương.

Theo chu trình ngân sách, CTX NSĐP là quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính tập trung vào NSĐP để đáp ứng các nhu cầu chi thực hiện các nhiệm


vụ thường xuyên hàng năm của chính quyền địa phương.

CTX NSĐP có đặc điểm là ổn định tương đối, hiệu lực tác động trong khoảng thời gian ngắn và mang tính chất tiêu dùng xã hội, gắn chặt với tổ chức bộ máy và sự lựa chọn cung cấp hàng hoá công cộng của Nhà nước nói chung và chính quyền địa phương nói riêng. Các nhiệm vụ thường xuyên hàng năm của chính quyền địa phương ít có sự biến động nên tổng mức, tỷ trọng trong tổng chi NSĐP, nội dung và cơ cấu CTX NSĐP ít có sự biến động lớn giữa các năm ngân sách. CTX NSĐP nhằm duy trì sự tồn tại, trang trải các chi phí hoạt động thường xuyên của bộ máy chính quyền địa phương và cung cấp các dịch vụ công thiết yếu về giáo dục, y tế, an sinh xã hội… cho người dân nên đại bộ phận các khoản CTX NSĐP không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội và thường chỉ phát huy hiệu lực tác động trong năm ngân sách. Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương quyết định đến số lượng cơ quan nhà nước, biên chế và cơ cấu biên chế công chức, các chi phí hoạt động thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương từ đó quyết định đến phạm vi, mức độ CTX NSĐP.

Thứ hai, chi ĐTPT NSĐP.

Theo hình thức biểu hiện, chi ĐTPT NSĐP là toàn bộ các khoản chi của chính quyền địa phương được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước địa phương có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KTXH, phát triển sản xuất theo đơn vị hành chính của chính quyền địa phương.

Theo chu trình ngân sách, chi ĐTPT NSĐP là quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính tập trung vào NSĐP để đáp ứng các nhu cầu chi đầu tư XDCB và một số nhiệm vụ chi ĐTPT khác của NSĐP.

Chi ĐTPT NSĐP là khoản chi lớn của NSĐP, nhưng không có tính ổn định. Chi ĐTPT chiếm quy mô, tỷ trọng lớn trong tổng chi NSĐP; phụ thuộc vào chủ trương, đường lối phát triển KTXH và khả năng NSĐP trong từng thời kỳ. Thứ tự ưu tiên và cơ cấu chi ĐTPT NSĐP cho các lĩnh vực KTXH có sự thay đổi giữa các thời kỳ phát triển KTXH. Chẳng hạn, sau một thời kỳ ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thì thời kỳ sau sẽ không cần ưu tiên đầu tư nhiều vào lĩnh vực đó nữa, vì hạ


tầng giao thông đã tương đối hoàn chỉnh…

Chi đầu tư XDCB NSĐP là nhiệm vụ chi của NSĐP để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư kết cấu hạ tầng KTXH và các chương trình dự án phục vụ phát triển KTXH. Chi đầu tư XDCB NSĐP bị chi phối bởi các đặc điểm của sản phẩm đầu tư XDCB như sản phẩm XDCB gắn với đất xây dựng, đơn chiếc, vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng dài. Chi ĐTPT khác của NSĐP như chi cấp vốn cho các doanh nghiệp địa phương, chi hỗ trợ đối với doanh nghiệp địa phương…

1.2. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quản lý chi ngân sách địa phương

1.2.1.1. Khái niệm

Quản lý chi NSĐP là quản lý toàn bộ các khoản chi của chính quyền địa phương được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước địa phương có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương [10].

Tiếp cận theo chu trình ngân sách, chu trình chi ngân sách bao gồm 3 khâu: lập, chấp hành và quyết toán chi NSĐP. Vì vậy, quản lý chi NSĐP là quản lý quá trình lập, chấp hành và quyết toán các khoản chi NSĐP.

Tiếp cận theo hoạt động quản lý gắn với chính quyền địa phương, quản lý chi NSĐP là quá trình chính quyền địa phương xây dựng và quyết định kế hoạch, dự toán; tổ chức thực hiện kế hoạch, dự toán; theo dõi và đánh giá, kiểm toán và giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ chi NSĐP bằng các công cụ, phương thức, hình thức và biện pháp phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đã định.

Chủ thể quản lý chi NSĐP là chính quyền địa phương, bao gồm cả các đơn vị dự toán NSĐP. Chính quyền địa phương, các đơn vị dự toán NSĐP được phân cấp phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể trong quản lý NSĐP phù hợp với phân cấp quản lý KTXH. Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn quản lý chi NSĐP, chính quyền địa phương gồm cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa phương. Các cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc về quản lý chi NSĐP như cơ quan Tài chính, cơ quan Kế hoạch và đầu tư, cơ quan KBNN… Đơn vị dự toán ngân sách là cơ


quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách. Đơn vị dự toán cấp I của NSĐP là đơn vị được UBND giao dự toán ngân sách. Đơn vị dự toán cấp dưới là các đơn vị trực thuộc đơn vị dự toán cấp I. Đơn vị dự toán được giao trực tiếp quản lý, sử dụng NSĐP là đơn vị sử dụng ngân sách hay đơn vị chi tiêu ngân sách.

Trong quản lý chi NSĐP, Nhà nước nói chung và chính quyền địa phương nói riêng thiết lập và sử dụng các công cụ, phương thức, hình thức và biện pháp quản lý phù hợp với môi trường KTXH trong từng thời kỳ như công cụ pháp luật, kế hoạch, kế toán, báo cáo, chế độ, tiêu chuẩn, định mức, mục lục NSNN; phương thức quản lý theo đầu vào, theo kết quả; hình thức rút dự toán ngân sách, lệnh chi tiền; phương pháp tổ chức, hình chính, giáo dục, kinh tế...

Mục tiêu quản lý chi NSĐP là bảo đảm kỷ luật tài khóa, hiệu quả phân bổ và hiệu quả hoạt động trong thực hiện các nhiệm vụ chi NSĐP.

1.2.1.2. Đặc điểm quản lý chi ngân sách địa phương

Một là, quản lý chi NSĐP có phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp.

Quản lý chi NSĐP có phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp xuất phát từ chính đặc điểm của chi NSĐP có quy mô lớn, phạm vi rộng, diễn ra trong tất cả các lĩnh vực KTXH với nhiều khoản chi có tính chất KTXH khác nhau, liên quan đến nhiều chủ thể trong xã hội.

Nhận thức đặc điểm này, đòi hỏi quản lý chi NSNN nói chung và NSĐP nói riêng vừa phải bảo đảm cơ chế và kỹ thuật quản lý chung, vừa phải có cơ chế và kỹ thuật quản lý cụ thể phù hợp với các khoản chi ngân sách cho từng lĩnh vực KTXH và nội dung kinh tế của các khoản chi.

Hai là, quản lý chi NSĐP phải tuân thủ pháp luật cả dưới góc độ quản lý nhà nước và cả dưới góc độ quản lý nghiệp vụ, tính pháp lý và hành chính cao.

Quản lý chi ngân sách của tư nhân chỉ phải tuân thủ pháp luật dưới góc độ quản lý nhà nước; dưới góc độ nghiệp vụ thực hiện theo quy định của chủ thể chi ngân sách. Nhưng quản lý chi NSNN, NSĐP phải tuân thủ pháp luật cả dưới góc độ quản lý nhà nước và cả dưới góc độ quản lý nghiệp vụ như tuân thủ quy trình, thủ tục, kế hoạch, hạch toán kế toán, mẫu biểu báo cáo…

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023