Phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh - 2


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH

1.1. Một số khái niệm cơ bản

Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại nền kinh tế tri thức đang trở nên quan trọng thì nguồn nhân lực càng đóng vai trò quan trọng. Đối với hoạt động du lịch nói riêng thì vấn đề nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa trực tiếp đối với hiệu quả hoạt động và mục tiêu phát triển ngành.

1.1.1. Nguồn nhân lực du lịch

1.1.1.1. Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là một khái niệm rộng, cho đến nay có rất nhiều quan niệm, nhiều cách tiếp cận khác nhau về nguồn nhân lực. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, những khái niệm về nguồn nhân lực đưa ra là quan niệm xuyên suốt luận văn về nguồn nhân lực.

Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ (vùng, tỉnh), là một bộ phận của các nguồn lực (nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực con người …) có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. [43, tr.65]

Nguồn nhân lực theo cách hiểu của các nhà kinh tế là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) trong một thời kỳ nhất định (có thể tính cho 1 năm, 5 năm, 10 năm phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển).

Theo nghĩa hẹp, với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lao động. Khái niệm “nguồn lao động” hiện nay cũng có khác biệt giữa các quốc gia. Nhưng nhìn chung có thể

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.


hiểu đó là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi quy định có khả năng lao động, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh - 2

Theo cách hiểu là nguồn lao động, Bộ Luật Lao động Việt Nam quy định nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi từ 16 đến 60 đối với nam, từ 16 đến 55 đối với nữ có khả năng lao động, trừ những người tàn tật, mất sức không có khả năng lao động.

Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Về chất lượng, nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất… Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội.

1.1.1.2. Nguồn nhân lực du lịch

Từ khái niệm nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du lịch được hiểu là một nguồn lực bao gồm toàn bộ lực lượng lao động có khả năng và đủ điều kiện cần thiết tham gia vào hoạt động du lịch, đóng góp vào quá trình phát triển du lịch.

Nguồn nhân lực du lịch bao gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, lao động hiện có và lao động tiềm năng, bổ sung cho sự phát triển của ngành. Trong hoạt động du lịch, lao động trực tiếp là những người làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các đơn vị sự nghiệp du lịch và các đơn vị kinh doanh du lịch; lao động gián tiếp là những người làm việc trong các ngành, các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động du lịch như: văn hoá thông tin, hải quan, giao thông, thương mại, bưu chính viễn thông, dịch vụ công cộng, cộng đồng dân cư…


Ở đây luận văn chỉ đề cập đến đội ngũ lao động trực tiếp trong ngành du

lịch.


1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực du lịch

1.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực

Có nhiều nghiên cứu và quan niệm về phát triển nguồn nhân lực nhưng nhìn chung, phát triển nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm tăng cường về mặt chất lượng, hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, được biểu hiện ở việc nâng cao trình độ giáo dục, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, sức khoẻ, thể lực cũng như ý thức, đạo đức của nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất, phẩm chất) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển. [24]

Như vậy, phát triển nguồn nhân lực về thực chất là phát triển về số lượng và chất lượng theo nhu cầu phát triển của một ngành, một vùng, lãnh thổ, quốc gia:

Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng: Nguồn nhân lực của một vùng lãnh thổ, một quốc gia về mặt số lượng thể hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi. Theo đó nguồn nhân lực được gọi là đông về số lượng khi có quy mô dân số lớn, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao.

Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên ba mặt: trí lực, thể lực và nhân cách, thẩm mỹ. Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng về thực chất là phát triển trên cả ba mặt đó của người lao động.

Phát triển trí lực là phát triển năng lực trí tuệ. Đó là quá trình nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức sáng tạo và kỹ năng, kỹ xảo của người lao động trong hoạt động thực tiễn. Quá trình này chịu ảnh hưởng, tác động của nhiều nhân tố trong đó giáo dục - đào tạo giữ vai trò quyết


định. Do vậy trong thời đại nền kinh tế tri thức như hiện nay, đồng thời với việc xem con người là nguồn lực quan trọng nhất thì giáo dục và đào tạo đều được các quốc gia đặt ở vị trí số một trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và phát triển nguồn nhân lực.

Phát triển thể lực là sự gia tăng chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, sức mạnh và độ dẻo dai của thần kinh, cơ bắp. Vấn đề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên, giống nòi, thu nhập và cách thức phân bố chi tiêu, môi trường, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ ngơi, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng (giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao…). Trong đó, ngoài yếu tố giống nòi, thu nhập và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này chỉ có thể được cải thiện trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội.

Phát triển yếu tố nhân cách, thẩm mỹ là phát triển yếu tố văn hoá, tinh thần và quan điểm sống: tính tích cực, dám nghĩ, dám làm, đạo đức, tác phong, lối sống… của người lao động. Đó là quá trình nâng cao trình độ nhận thức, các giá trị cuộc sống, tinh thần trách nhiệm, khả năng hoà hợp với cộng đồng, đấu tranh với các tệ nạn để xây dựng lối sống lành mạnh và hình thành tác phong công nghiệp trong lao động.

Phát triển nguồn nhân lực có vai trò và ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được phát triển bằng nhiều con đường khác nhau nhưng chủ yếu và quan trọng vẫn là qua giáo dục đào tạo.

Mục đích chính của phát triển nguồn nhân lực là sử dụng tối đa nguồn nhân lực. Quá trình phát triển nguồn nhân lực là để chuẩn bị cho con người thực hiện tốt hơn và có am hiểu hơn về công việc của họ, phát triển những kỹ năng, những hiểu biết nhất định, phát triển thái độ làm việc cũng như sự hợp tác tự nguyện trong quá trình lao động.

Mục tiêu cuối cùng của phát triển nguồn nhân lực là đạt được hiệu quả


cao nhất về tổ chức.‌

Mục tiêu cơ bản của phát triển nguồn nhân lực là:

- Xây dựng và thực hiện một kế hoạch phát triển nguồn nhân lực bằng những hoạt động phát triển và đào tạo, thực hiện phân tích đánh giá nhu cầu cần được đào tạo của người lao động ở mỗi trình độ.

- Chuẩn bị đội ngũ chuyên gia để quản lý, điều khiển và đánh giá chương trình đào tạo và phát triển.

- Nghiên cứu về nhân lực, cơ cấu, số lượng, chất lượng và nhu cầu cần đào tạo, phát triển.

- Xây dựng kế hoạch phát triển cho từng thời kỳ nhất định.

1.1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực du lịch

Xuất phát từ quan niệm về phát triển nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực du lịch được hiểu là những hoạt động nhằm tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc với cơ cấu hợp lý của lực lượng lao động tham gia làm việc trong ngành du lịch.

Nội dung của phát triển nguồn nhân lực du lịch tập trung vào một số vấn đề cơ bản:

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và lao động trong ngành

- Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch

- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo du lịch

- Ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nguồn nhân lực du lịch

- Tăng cường năng lực quản lý phát triển nguồn nhân lực du lịch

- Nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch.


1.2. Đặc điểm lao động trong du lịch


1.2.1. Đặc điểm chung của lao động trong du lịch

Lao động mang tính xã hội hóa cao, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khách khác nhau, công việc mang tính phục vụ chịu tác động bởi mối quan hệ người - người

Lao động có mức độ chuyên môn hoá cao và tổ chức theo các bộ phận: Trong kinh doanh khách sạn, có nhiều loại hình dịch vụ bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung. Vì vậy lao động cũng thường được chia thành nhiều bộ phận: bộ phận quản lý, bộ phận tiền sảnh, bộ phận phục vụ ăn uống, bộ phận tiệc, bộ phận phục vụ buồng, an ninh, kỹ thuật. Mỗi bộ phận trong khách sạn hoạt động theo quy trình, nghiệp vụ riêng và tương đối độc lập.

Trong kinh doanh lữ hành, đội ngũ lao động bao gồm phát triển sản phẩm, marketing, tư vấn và bán, điều hành và hướng dẫn du lịch, quản lý chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn, lao động tư vấn và bán sản phẩm lữ hành đòi hỏi có kiến thức rộng, khả năng giao tiếp tốt, tính chuyên nghiệp cao, cập nhật thông tin để thực hiện tư vấn cho khách; người điều hành, hướng dẫn viên phải có khả năng tổ chức và quản lý, có kinh nghiệm, văn hoá giao tiếp cao, đặc biệt văn hoá giao tiếp ứng xử và văn hoá giao tiếp ngôn ngữ. Lao động trong doanh nghiệp lữ hành hội tụ các đặc điểm lao động của nhà nghiên cứu, nhà viết kịch bản, nhà đạo diễn, nhà quản lý, nhà kinh tế, nhà tổ chức, nhà kinh doanh, nhà ngoại giao, nhà tâm lý, nhà giáo và là diễn viên.

Khả năng cơ giới hoá và tự động hoá thấp: Trong ngành dịch vụ, nhân tố con người luôn giữ vai trò quan trọng, trong khi đó sản phẩm chủ yếu của du lịch là dịch vụ, tất nhiên cũng có một số công việc có thể sử dụng các phần mềm quản lý. Đối với ngành khách sạn, con người là yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động kinh doanh do có ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ hài


lòng của khách. Mọi công đoạn đón tiếp, phục vụ và tiễn khách không thể thiếu sự tham gia trực tiếp của con người, đội ngũ lao động trong khách sạn. Đối với hoạt động của hướng dẫn viên, đây là hoạt động tổ chức và phục vụ khách du lịch, cung cấp các dịch vụ, vì vậy không thể thay thế bằng hệ thống máy móc. Sản phẩm lữ hành được tạo ra theo một quy trình mang tính tổng hợp cao và rất đa dạng nên khả năng cơ giới hoá, tự động hoá trong công việc là rất thấp.

Thời gian lao động phụ thuộc vào nhu cầu của khách: Khách sạn là đơn vị kinh doanh liên tục 24/24 giờ, nhân viên luôn trong trạng thái sẵn sàng phục vụ khách vào mọi thời điểm. Làm việc theo ca là đặc trưng cơ bản của đội ngũ lao động trong khách sạn. Lao động trong du lịch làm việc mọi lúc mọi nơi theo yêu cầu của khách, thậm chí không kể ngày đêm, ngày lễ, tết, ngày nghỉ…

Lao động mang tính thời vụ cao: Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: tự nhiên, kinh tế xã hội, tâm lý xã hội. Do tính thời vụ mà cơ cấu lao động du lịch luôn biến đổi. Chính vụ doanh nghiệp cần huy động một đội ngũ lao động lớn như điều hành, hướng dẫn viên, nhân viên tư vấn du lịch, nhân viên phục vụ. Ngoài vụ lại cần một số lượng lớn lao động phát triển thị trường, tư vấn. Điều này gây khó khăn cho việc tổ chức quản lý lao động.

Yêu cầu cao về kiến thức, tính chuyên nghiệp và văn hoá giao tiếp cũng như đòi hỏi cao về thể lực và sức ép tâm lý: Thường xuyên phải tiếp xúc, phục vụ các đối tượng khách đa dạng về lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ, đặc điểm tâm lý, quốc tịch, cùng với các nhu cầu rất khác nhau, người phục vụ du lịch phải đảm bảo đem lại dịch vụ hoàn hảo nhất cho khách, điều đó đặt họ trong trạng thái luôn sẵn sàng phục vụ và phải luôn cân bằng, che giấu những cảm xúc thực của mình đồng thời phải nắm bắt được tâm lý khách làm sao


phục vụ họ tốt nhất. Bên cạnh đó người lao động du lịch còn thường xuyên phải tiếp nhận các yêu cầu, phàn nàn, xử lý các tình huống phức tạp, hoạt động kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong quá trình làm việc cũng gây nên áp lực tâm lý nặng nề, căng thẳng. Trong kinh doanh khách sạn do đặc trưng làm việc ca kíp, đòi hỏi người lao động phải có sức khoẻ tốt, có sức chịu đựng dẻo dai. Bên cạnh sự đòi hỏi tính chuyên nghiệp trong phục vụ, trình độ tay nghề, nghiệp vụ, người lao động còn phảI am hiểu thêm nhiều lĩnh vực khác để cung cấp thông tin cho khách. Kinh doanh lữ hành đòi hỏi người lao dộng phải có kiến thức rộng trong nhiều lĩnh vực, có chuyên môn giỏi, giao tiếp tốt, sức khoẻ tốt, hình thức bảo đảm theo yêu cầu, có phẩm chất tâm lý nhiệt tình, hăng say, năng động, tư duy sáng tạo và đặc biệt là tinh thần trách nhiệm cao. Ngoại ngữ và tin học được coi như công cụ hành nghề của lao động trong kinh doanh lữ hành. Do đặc thù công việc (về thời gian, không gian, đối tượng phục vụ), lao động trong kinh doanh lữ hành phải hết sức khéo léo, linh hoạt, kiên trì, nhẫn nại và phải có sức khoẻ dẻo dai trong quá trình phục vụ và xử lý các tình huống.

1.2.2. Đặc điểm của nhóm lao động chức năng quản lý nhà nước về du lịch

Nhóm lao động này bao gồm những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương. Ở nước ta, nhóm lao động này làm việc ở Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch, Sở Thương mại - Du lịch, Sở Du lịch - Thương mại của các tỉnh, thành phố; phòng quản lý du lịch ở các quận, huyện, giữ vai trò trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và địa phương, tham mưu cho các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong việc đề ra đường lối và chính sách phát triển du lịch, đại diện cho nhà nước hướng dẫn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu quả đồng thời kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh đó.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí