Quản Lý Bồi Dưỡng Cán Bộ , Công Chức Khối Đảng, Đoàn

Từ đó có thể đưa ra khái niệm: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động”.

1.2.6. Quản lý bồi dưỡng

Quản lý bồi dưỡng là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu cập nhật, bổ túc thêm một số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng với kết quả tốt nhất cho đối tượng quản lý.

Quản lý bồi dưỡng là hoạt động quản lý tác động vào đối tượng được quản lý bồi dưỡng nhằm hoàn thành mục tiêu, nội dung, kế hoạch, chương trình bồi dưỡng.

Khái niệm quản lý bồi dưỡng được hiểu là sự tác động của Nhà nước đối với các quan hệ xã hội đảm bảo cho các quan hệ xã hội ảnh hưởng, tương tác và phát triển theo hướng đúng những mục tiêu đã định.

1.2.7. Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn

Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn là sự tác động có mục đích, có tổ chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lên các đối tượng quản lý là quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bồi dưỡng cán bộ, công chức trên cơ sở chính sách, pháp luật về bồi dưỡng để nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của đội ngũ CB,CC khối Đảng, Đoàn hướng đến mục tiêu là nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.

Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn là hoạt động quản lý của các tổ chức nhà nước tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm hoàn thành mục tiêu, nội dung, kế hoạch, chương trình bồi dưỡng cho cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn phát triển, vận hành theo đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và

thực hiện được những yêu cầu của địa phương và xã hội, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội.

1.3. Đặc điểm lao động của cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể nói riêng là một bộ phận không thể thiếu trong đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta. Mọi hoạt động của các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị- xã hội ở cơ sở đều do công chức thực hiện. Vai trò của đội ngũ CBCC khối Đảng, Đoàn thể thể hiện:

- Là nguồn nhân lực quan trọng có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đưa các chính sách và cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trở thành thực tiễn và tiếp thu nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt được những yêu cầu của thực tiễn cuộc sống để phản ánh kịp thời với cấp trên, là một trong những nguồn lực quan trọng trong việc thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, đoàn tỉnh Bắc Kạn - 4

- Đội ngũ CBCC khối Đảng, Đoàn thể có vị trí, vai trò quyết định trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Thông qua họ mà ý Đảng, lòng dân tạo thành một khối thống nhất, làm cho Đảng, Nhà nước “ăn sâu, bám rễ” trong quần chúng nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Như vậy, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực sinh động hay không, tùy thuộc phần lớn vào sự tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân của đội ngũ CBCC khối Đảng, Đoàn thể.

- CBCC khối Đảng, Đoàn thể là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có số lượng lớn và vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng. Bởi vì họ là những người trực tiếp gắn bó với địa phương, am hiểu tâm tư, nguyện vọng của người dân, đồng thời là người đại diện cho nhân dân trong việc cung cấp thông tin cho các cán bộ lãnh đạo để đưa ra quyết định

quản lý khoa học, đúng đắn.

- CBCC khối Đảng, Đoàn thể cũng là những người trực tiếp hiện thực hóa quyền làm chủ cơ sở của nhân dân... Vì vậy, trình độ và phẩm chất của đội ngũ này có ảnh hưởng rất lớn đến sự vận hành liên tục và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Và thực tế cũng chứng minh: Nơi nào quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán bộ, có đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh thì nơi ấy tình hình chính trị xã hội ổn định, kinh tế văn hóa phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, mọi chủ trương, đường lối của Đảng được triển khai có hiệu quả. Ngược lại, ở đâu đội ngũ CBCC khối Đảng, Đoàn thể không được quan tâm, để xảy ra tình trạng tham nhũng, cửa quyền, hách dịch thì nơi đó tình hình địa phương gặp nhiều khó khăn, phức tạp, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. CBCC khối Đảng, Đoàn thể là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi tiềm năng, nguồn lực của địa phương, động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức thi đua hoàn thành thắng lợi các mục tiêu về kinh tế- xã hội, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ sở.

- Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn

CBCC khối Đảng, Đoàn là một bộ phận của đội ngũ CBCC được tạo nên từ hai nguồn chính là bầu cử và tuyển dụng. Do các tổ chức hành chính nhà nước có cấu trúc thứ bậc, thực hiện các chức năng đa dạng, phức tạp nên CBCC khối Đảng, Đoàn thể cũng có những đặc trưng cơ bản giống các đối tượng CBCC khác, đó là:

+ CBCC là nhân tố chủ yếu, nhân tố hàng đầu đóng góp vào sự tồn tại, phát triển của cơ quan, tổ chức. Đồng thời họ chịu sự ràng buộc theo những nguyên tắc và khuôn khổ nhất định do tổ chức đặt ra;

+ CBCC mang tính Đảng, tính giai cấp rõ rệt và sản phẩm của họ là các quyết định quản lý; CBCC là những người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; là chủ thể của nền công vụ, là những người thực thi công vụ và được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả

năng và yên tâm thực thi công vụ;

+ Đội ngũ CBCC hoạt động mang tính chất ổn định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của nền hành chính; họ được bảo hộ bằng quy định “biên chế nhà nước”.

+ Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, nắm được những nội dung cơ bản, chủ yếu của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, những mục đích chính trong hoạt động của cơ quan mà mình phục vụ.

Một cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể không chỉ nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là tấm gương đạo đức trong sáng, thu hút quần chúng, mà trước hết phải là người am hiểu công việc theo chức danh, nắm vững quy luật vận động của sự vật, hiện tượng mà còn phải có những cảm nhận nhạy bén, chính xác về khả năng dự báo tình hình. Hiểu biết nghiệp vụ công tác ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Nó không chỉ trong phạm vi chuyên môn được đào tạo mà bao hàm cả hiểu biết cơ bản về tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại; tình hình trong nước, ngoài nước, xu hướng, quy luật vận động khách quan của sự vật, hiện tượng xã hội.

- Các tiêu chí cần có của đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể

* Tiêu chí về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều kiện tiên quyết trong thực hiện các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm công việc. Trình độ là mức độ về sự hiểu biết, về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất định nào đó thể hiện ở văn bằng chứng chỉ mà mỗi công chức nhận được thông qua quá trình học tập.

- Về trình độ năng lực:

Năng lực là yếu tố rất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể. Chính năng lực quyết định hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể. Năng lực là tập hợp các đặc điểm phẩm

chất tâm lý phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả. Năng lực hình thành một phần dựa trên cơ sở tư chất tự nhiên của cá nhân, và một phần lớn dựa trên quá trình đào tạo, giáo dục và hoạt động thực tiễn, cũng như rèn luyện của cá nhân. Năng lực thể hiện ở chỗ, con người làm việc tốn ít sức lực, ít thời gian, của cải mà kết quả lại tốt. Việc phát hiện ra năng lực của con người căn cứ vào những dấu hiệu sau: Sự hứng thú đối với công việc nào đó, sự dễ dàng tiếp thu kỹ năng nghề nghiệp, hiệu suất lao động trong lĩnh vực đó.

Đối với cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể năng lực thường bao gồm những tố chất cơ bản về đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về trình độ kiến thức, về pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự am hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật xử lý thông tin... để giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước một cách khôn khéo, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật. Đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể phải có sự ham mê, yêu nghề, chịu khó học hỏi, tích lũy kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể phải có khả năng thu thập thông tin, chọn lọc thông tin, khả năng quyết định đúng đắn, kịp thời. Vì vậy, việc nâng cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện cho đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể là vấn đề quan trọng và bức xúc trong mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể.

- Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ: Năng lực của người cán bộ quyết định sức mạnh để có thể hoàn thành công việc với mục đích cuối cùng là hiệu quả, được thể hiện ở các mặt như: trình độ văn hóa, kiến thức quản lý nhà nước, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

+ Trình độ văn hóa là nền tảng cho nhận thức, tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng chủ trương, chính sách trong thực tiễn.

+ Trình độ quản lý hành chính nhà nước: Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính tổ chức lên các quan hệ xã hội, đó là thủ pháp mà nhà quản lý sử

dụng trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình để giải quyết các vụ việc cụ thể đặt ra. Hoạt động quản lý vừa được coi là một khoa học, vừa là nghệ thuật. Để thực hiện được các hoạt động này, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể cần phải được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước thì mới có được những kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao.

+ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Được hiểu là trình độ được đào tạo ở các lĩnh vực khác nhau theo cấp độ: Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học. Đó là những kiến thức mà nhà trường trang bị cho người học theo các chuyên ngành nhất định được thể hiện qua hệ thống bằng cấp. Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện mọi hoạt động quản lý, giải quyết mọi tình huống phát sinh trên thực tế. Nếu đội ngũ công chức xã không có chuyên môn, nghiệp vụ, chỉ làm theo kinh nghiệm hoặc giải quyết mang tính chắp vá, tùy tiện chắc chắn sẽ hiệu quả không cao thậm chí còn mắc sai phạm nghiêm trọng.

+ Kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ: là khả năng ứng xử và giải quyết công việc. Khả năng này bộc lộ thông qua sự hiểu biết, nhận thức và rèn luyện để có kỹ năng giải quyết công việc. Kỹ năng này hình thành có sự trải nghiệm thực tế hay còn gọi là điều kiện hình thành kỹ năng làm việc của nguồn nhân lực. Vì thế có những cán bộ, công chức được đào tạo như nhau nhưng có kỹ năng làm việc không hoàn toàn giống nhau và kỹ năng được nâng lên thông qua quá trình thực hiện thao tác trực tiếp trong công việc. Kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của CBCC khối Đảng, Đoàn thể bao gồm: kỹ năng quản lý; kỹ năng ứng xử và giao tiếp; kỹ năng thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân; kỹ năng soạn thảo văn bản; kỹ năng tin học...

+ Kinh nghiệm làm việc thể hiện sự trải nghiệm trong công việc qua thời gian làm việc, thâm niên công tác. Những người có nhiều kinh nghiệm làm việc có thể giải quyết công việc thuần thục và nhanh hơn người ít kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm việc kết hợp với trình độ và kỹ năng xử lý trong công việc tạo thành mức độ lành nghề và ưu điểm của mỗi người cán bộ, công chức. Khả năng sáng tạo là vô tận, năng lực của con người thể hiện tư duy trong việc đưa

ra các sáng kiến, các ý tưởng và có các quyết định nhanh nhạy linh hoạt trong giải quyết các vấn đề. Khả năng này không phụ thuộc vào lứa tuổi hay giới tính. Do đó, một con người vừa có khả năng sáng tạo, vừa có kinh nghiệm trong công việc thì có thể có kỹ năng làm việc vượt trội hơn và là tài sản quý giá của tổ chức. Khai thác trí lực của con người hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức mà trong đó các cấp quản trị là quan trọng nhất. Các yếu tố này không thể mang ra cân, đo, đếm bằng định lượng cụ thể.

* Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống:

- Phẩm chất đạo đức:

Trong công tác cũng như trong cuộc sống, phẩm chất đạo đức của người CBCC được biểu hiện ở: gương mẫu về đạo đức, có lối sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; tận tụy phục vụ nhân dân, không quan liêu hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn cho nhân dân khi đến giải quyết công việc.

Đây là yếu tố đầu tiên, là điều kiện đối với mỗi cán bộ, công chức. Là giá trị và tính chất tốt đẹp của con người. Để trở thành những cán bộ, công chức có năng lực trước hết phải là người có phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể được biểu hiện trước hết là sự tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Đó là con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, không dao động trước những khó khăn thử thách. Đồng thời phải có biện pháp để đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân.

Người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị tốt không chỉ bằng lời tuyên bố, hứa hẹn mà quan trọng hơn là việc nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiên quyết chống lại mọi biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đời sống xã hội đi trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước. Phẩm chất chính trị của người cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể còn biểu hiện thông qua việc họ có làm việc với tinh thần trách nhiệm, hiệu quả hay không; có tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại trong công tác hay không, có ý chí cầu tiến, ham học hỏi hay không, thái độ tận tụy phục vụ nhân dân, tinh thần trách nhiệm đối với đời sống nhân dân.

- Phẩm chất chính trị:

Đây là phẩm chất rất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể, nó là cái “gốc” của người cán bộ. Cán bộ, công chức muốn xác lập được uy tín của mình trước nhân dân, trước hết đó phải là người công chức có phẩm chất đạo đức tốt. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang có sự chuyển biến nhanh chóng và xã hội đang nảy sinh nhiều vấn đề hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến trình độ dân trí ngày một nâng cao, sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ công chức chuyên môn. Thêm vào đó công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi người công chức ở cơ sở phải tạo lập cho mình một uy tín đối với quần chúng nhân dân. Luôn luôn gương mẫu, có lối sống lành mạnh, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, không tham nhũng, vụ lợi cá nhân, sinh hoạt bê tha, có tinh thần chống tham nhũng, tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, sâu sát với công việc, không quan liêu cửa quyền, gây phiền hà cho dân, tác phong làm việc khoa học, dân chủ, nói đi đôi với làm, làm nhiều hơn nói. Có tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc; biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp và những người xung quanh.

Yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể đòi hỏi phải cao hơn so với người khác bởi vì công chức là công bộc của dân. Xét về bản chất thì đây là tiêu chuẩn hàng đầu và xem như là đương nhiên phải có của người cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức nếu thiếu phẩm chất đạo đức, thì dù có tài năng kiệt xuất cũng không thể là công bộc của dân được.

Tóm lại: Một đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng là đội ngũ có phẩm

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí