Bồi Dưỡng Cán Bộ, Công Chức Khối Đảng, Đoàn

Ngoài ra còn có: “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Ngọc Quang đã đề cập đến những khái niệm cơ bản của quản lý, quản lý giáo dục, các đối tượng của khoa học quản lý giáo dục; Tác giả Đặng Bá Lãm, Phạm Thành Nghị “Chính sách và kế hoạch phát triển trong quản lý giáo dục” đã phân tích sâu sắc về lý thuyết và mô hình chính sách, các phương pháp lập kế hoạch giáo dục. PGS.TS Trần Kiểm “Những vấn đề nghiên cứu cơ bản của khoa học quản lý giáo dục[12] đã trình bày những quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển giáo dục và hệ thống giáo dục, làm rõ tư tưởng quản lý…

Tìm hiểu tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy đã có nhiều công trình khoa học và luận án, luận văn, bài báo liên quan đến đề tài “Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn tỉnh Bắc Kạn”. Những công trình này đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực trạng về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, đoàn thể tại tỉnh Bắc Kạn. Việc nghiên cứu đề tài này với cấp độ luận văn thạc sỹ quản lý giáo dục để đề xuất các biện pháp hoàn thiện công tác quản lý bồi dưỡng nói riêng, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói chung của tỉnh Bắc Kạn.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Cán bộ, công chức

Luật "Cán bộ, Công chức" năm 2008 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 quy định:

Khoản 1 điều 4: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [18].

Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội thông qua con đường bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các văn bản Pháp luật tương ứng chuyên ngành điều chỉnh hoặc theo Điều lệ. Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật cán bộ, công chức 2008 quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị xã hội sẽ được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính trị- xã hội quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định khác của pháp luật có liên quan và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể.

Khoản 2 điều 4: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [18].

Theo quy định này thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội và bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng (thi tuyển, xét tuyển), bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì được xác định là công chức. Công chức là những người được tuyển dụng lâu dài, hoạt động của họ gắn với quyền lực công (hoặc quyền hạn hành chính nhất định) được cơ quan có thẩm quyền trao cho và chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Việc quy định công chức trong phạm vi như vậy xuất phát từ mối quan hệ liên thông giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam rất khác so với một số nước trên thế giới nhưng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể và thể chế chính trị ở Việt Nam.

1.2.2. Cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Là đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể của tỉnh bao gồm: các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy (Văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên giáo, ban dân vận, ban nội chính, cơ quan ủy ban kiểm tra), các tổ chức chính trị- xã hội (Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn Lao động, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc) của tỉnh.

1.2.3. Bồi dưỡng

Quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, đoàn tỉnh Bắc Kạn - 3

Theo Từ điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên (Nxb, Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2010), Bồi dưỡng đó là "làm cho người học tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ và tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. [21]

Bồi dưỡng là nhằm nâng cao trình độ nghề nghiệp, quá trình này diễn ra khi cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn của bản thân để đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp.

Theo tổ chức Unesco "Bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp- quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kĩ năng chuyên môn của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp".

Nghị định số 18/2010/NĐ- CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về Đào tạo và Bồi dưỡng công chức, tại điều 5 giải thích: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [5].

Có thể hiểu bồi dưỡng là một dạng đào tạo đặc biệt, là giai đoạn tất yếu tiếp theo của chương trình đào tạo liên tục, tiếp nối thường xuyên trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của mỗi người.

Tổ chức các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ chính là việc tổ chức những cơ hội cho mọi người học tập để nâng cao năng lực cá nhân. Các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giúp cho họ có thể sử dụng tốt hơn các kĩ năng, tiềm lực vốn có, phát huy hết khả năng làm việc của họ.

Bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ nâng cao năng lực công tác cho cán bộ hiện tại mà chính là đáp ứng các yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai của tổ chức. Bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ là thực hiện nhiệm vụ lấp đầy khoảng trống giữa một bên là những điều đã đạt được, đã có trong hiện tại với một bên là những yêu cầu chất lượng cho tương lai, những đòi hỏi cần phải có theo chuẩn mực.

Như vậy, thực chất của bồi dưỡng là quá trình bổ sung những thiếu hụt về tri thức, kĩ năng hoặc để nâng cao trình độ, mở mang và phát triển những gì đã có, làm tăng thêm lượng vốn hiểu biết trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả lao động. Chủ thể bồi dưỡng là những người được đào tạo, có trình độ chuyên môn, mục đích bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn để người lao động có cơ hội củng cố, nâng cao hệ thống kiến thức, kĩ năng chuyên môn nghiệp vụ.

Bồi dưỡng là việc trang bị, cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng làmviệc của người học, đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi công việc, nhiệm vụ. Cơ

sở khoa học của chương trình bồi dưỡng là phân tích, mô tả và tiêu chuẩn hóacông việc, so sánh với năng lực hiện có của nhân sự cụ thể để tìm ra sự thiếuhụt cần được đào tạo, huấn luyện thêm. Bồi dưỡng có mục tiêu hẹp khiêm tốn,thực hiện trong một thời gian ngắn, thường xuyên, kết thúc khóa học có thểđược cấp hoặc không được cấp văn bằng, chứng chỉ.

Từ các cách tiếp cận trên ta có thể đưa ra một quan niệm về bồi dưỡng như sau: Bồi dưỡng là quá trình nâng cao kiến thức, cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc thêm về nghiệp vụ, củng cố các kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó.

1.2.4. Bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn

Bồi dưỡng là một trong những hoạt động quan trọng của phát triển nguồn nhân lực. Từ các quan niệm nêu trên, có thể hiểu: bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Đảng, Đoàn thể là quá trình tổ chức học tập cho đội ngũ CB, CC đang làm việc ở các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị- xã hội từ tỉnh đến huyện nhằm trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc giúp họ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Nội dung, cách thức bồi dưỡng do yêu cầu riêng của từng cơ quan, đơn vị, từng vị trí công tác của cán bộ, công chức.

Quá trình bồi dưỡng cán bộ, công chức gồm hai quá trình bộ phận:

Một là, giảng dạy lý luận, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương; nghiệp vụ công tác Đảng, công tác quản lý nhà nước, công tác vận động quần chúng.

Hai là, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng thực hành, xử lý các tình huống trong thực tế công việc, chuyên môn của từng lĩnh vực đảm nhiệm của người cán bộ đó. Tuy nhiên, quá trình bồi dưỡng không phải chủ yếu là truyền đạt, cung cấp thông tin kiến thức lý luận và kinh nghiệm mà chủ yếu là hình thành kỹ năng, rèn luyện kỹ xảo, phát triển khả năng tìm tòi, sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và cách thức xử lý vấn đề trong điều kiện, môi trường luôn có sự biến đổi khó lường.

1.2.5. Quản lý

Là một hệ thống tác động xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận và có những khái niệm khác nhau về quản lý.

Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là con người cụ thể, sự vật cụ thể. Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tạp hợp người, công cụ, phương tiện, tài chính… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định trước.

Quản lý là sự chỉ huy, sự điều hành có mục đích của chủ thể quản lý nhằm điều khiển hoạt động của khách thể quản lý để đạt được mục tiêu quản lý đề ra.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [17].

Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng) quản lý về mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [7]

Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [4].

Theo Harold Koonyz: “Quản lý là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con

người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học” [13].

Các nhà lý luận quản lý quốc tế như: Frederich wiliam Tay Lor (1856- 1915), Mỹ; HenriFayol (1841-1925), Pháp; MaxWeber (1864-1920), Đức đều khẳng định: Quản lý là khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin: “Quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ thống con người khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan nhằm đảm bảo cho hệ thống hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”. [3]

Về nội dung, thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong giáo trình: Khoa học quản lý (tập 1, NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội năm 1999)

[11] đã ghi:

- Quản lý là các hoạt động thực tiễn nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác.

- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự khác cùng chung một tổ chức.

- Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt mục đích của nhóm.

- Quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó.

Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ- Đặng Quốc Bảo thì cho rằng quản lý là qúa trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra, có thể khái quát: Quản lý là sự tác động điều hành, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới các mục tiêu đã đề ra.

Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Quản lý là phương thức tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm hệ các quy tắc ràng buộc

về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đa hệ sớm đạt mục tiêu.

Những định nghĩa trên khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều gặp nhau ở những nội dung cơ bản, quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều kiện) sau:

+ Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và ít nhất là một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý tạo ra và các khách thể khác chịu tác động gián tiếp của chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.

+ Phải có mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.

+ Chủ thể có thể là một người, nhiều người, còn đối tượng có thể là một hoặc nhiều người (trong tổ chức xã hội).

Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt mục đích của mình.

Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.

Như vậy có thể khái quát: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho xã hội” [14]

Quản lý là môn khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn khác như: toán học, thống kê, kinh tế, tâm lý và xã hội học,… nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao.

Quản lý gắn liền với hoạt động có mục đích, có kế hoạch và có quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý, khách thể quản lý. Cả 2 yếu tố này đều hướng tới mục tiêu chung đó là mục tiêu của tổ chức.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí