Kết quả khảo sát ở bảng 2.12 cho thấy:
Nhìn vào kết quả khảo sát đa số các ý kiến đánh giá đều cho là có mức độ ảnh hưởng và rất ảnh hưởng đến thực trạng quản lý HĐTNST ở trường THCS huyện Thanh Hà, chúng tôi nhận thấy về cơ bản các trường đã đáp ứng yêu cầu về các điều kiện tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh, tuy nhiên chỉ dừng ở mức tương đối. Trong các điều kiện trên điều kiện ảnh hưởng cao nhất là năng lực quản lý, tổ chức, lãnh đạo của Hiệu trưởng, năng lực của người tổ chức HĐTNST cho học sinh, tiếp đến là điều kiện CSVC, kỹ thuật, tài chính phục vụ cho HĐTNST..., hạn chế nhất là sự phối kết hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường trong việc tổ chức HĐTNST cho học sinh, đây cũng là yếu tố cần được quan tâm trong hoạt động quản lý.
Một số CB, GV đã cho biết:
Cô N.T.T.B - Hiệu trưởng trường THCS C.V.A (trường chất lượng cao của huyện): “Việc huy động các nguồn lực bên ngoài nhà trường trong quá trình tổ chức HĐTNST có thực hiện nhưng chỉ tập trung vào các nội dung như: tham quan các di tích lịch sử dành cho học sinh trong các đội tuyển học sinh giỏi thi cấp tỉnh, hỗ trợ học sinh tham gia các cuộc thi nghiên cứu khoa học còn các nội dung tham quan các làng nghề truyền thống, tổ chức diễn đàn, giao lưu v.v... vẫn chưa được khai thác sâu để thực hiện”.
Cô Đ.T.N, TPT Đội trường THCS T.A: “Hiện tại không gian trong nhà trường mới chỉ cơ bản đảm bảo cho hoạt động GD thể chất với số lượng HS theo khối lớp. Nhà trường chưa có nhà đa năng nên các hoạt động tổ chức ngoài lớp học phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện thời tiết. Ngoài ra, để triển khai các hoạt động tập thể lớn như: Hội khỏe Phù đổng, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn v.v...thì diện tích sân bãi chưa đạt chuẩn theo yêu cầu nên hạn chế cho số lượng người tham gia hoạt động”.
Có thể nói, CBQL đang thực hiện rất tốt khâu QL và khai thác sử dụng CSVC hiện có trong nhà trường phục vụ cho HĐTNST, tuy nhiên để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về đổi mới trong chương trình GDPT mới, BLĐ nhà trường cần tiếp tục xây dựng kế hoạch đề nghị phối hợp về CSVC với các lực lượng ngoài trường trong từng nội dung hoạt động. Cũng như đề nghị cấp có thẩm quyền tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng cho nhà trường để phục vụ tốt cho các hoạt động dạy và học.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng
Để tìm hiểu rõ về thực trạng quản lý HĐTNST ở các trường THCS huyện Thanh Hà, chúng tôi tiến hành khảo sát CBGV trong các nhà trường và thu được kết quả như sau:
Bảng 2.13: Thực trạng công tác quản lý HĐTNST ở các trường THCS huyện Thanh Hà
Nội dung | Tốt | Khá | TB | Yếu | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
1 | Việc xây dựng kế hoạch HĐTNST | 23 | 25.56 | 29 | 32.22 | 26 | 28.89 | 12 | 13.33 |
2 | Việc tổ chức thực hiện kế hoạch HĐTNST | 23 | 25.56 | 29 | 32.22 | 24 | 26.67 | 14 | 15.56 |
3 | Việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch HĐTNST | 21 | 23.33 | 27 | 30.00 | 29 | 32.22 | 13 | 14.44 |
4 | Việc kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch HĐTNST | 18 | 20.00 | 21 | 23.33 | 19 | 21.11 | 32 | 35.56 |
Có thể bạn quan tâm!
- Một Vài Nét Về Khách Thể Khảo Sát Và Tổ Chức Khảo Sát
- Nhận Thức Về Mức Độ Cần Thiết Của Các Nội Dung, Phương Pháp Và Hình Thức Tổ Chức Hđtnst
- Năng Lực Của Giáo Viên Đáp Ứng Yêu Cầu Khi Tổ Chức Hđtnst
- Nâng Cao Nhận Thức Cho Cbql, Gv Và Các Lực Lượng Gd Về Tầm Quan Trọng Của Hđtnst Ở Trường Thcs
- Đa Dạng Hóa Các Loại Hình Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Trường Thcs
- Phối Hợp Chặt Chẽ Các Lực Lượng Trong Và Ngoài Nhà Trường Khi Tổ Chức
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Qua khảo sát cho thấy: Tỉ lệ đánh giá ở mức độ thực hiện tốt và khá còn thấp (đạt từ 20% đến 32.22%), có từ 13.33% đến 35.56% đánh giá năng lực quản lý HĐTNST của CBQL nhà trường là yếu đặc biệt là việc kiểm tra đánh giá thực hiện kế hoạch HĐTNST. Qua đó cho thấy việc thực hiện công tác quản lý HĐTNST của CBQL nhiều khi vẫn mang tính hình thức, hoặc chỉ thực hiện khi có sự chỉ đạo từ cấp trên.
Từ thực trạng đã phân tích ở trên, tác giả luận văn rút ra một số đánh giá chung về công tác quản lý HĐTNST của các trường THCS huyện Thanh Hà như sau:
2.4.1. Những điểm mạnh
- Cán bộ lãnh đạo, quản lí, GV và HS đã có nhận thức đúng về HĐTNST:
CBQL, GV, NV, HS nhà trường đều xác định được HĐTNST là một bộ phận quan trọng trong quá trình giáo dục. Là dịp để mở rộng, củng cố, nâng cao kiến thức, phát triển toàn diện nhân cách người học sinh. Sự nhận thức này là cơ sở cho việc đẩy mạnh những hình thức tổ chức khác nhau, góp phần thực hiện chủ trương giáo dục toàn diện trong nhà trường, khích lệ giáo viên và học sinh nỗ lực thi đua dạy tốt, học tốt. Kết quả học tập và rèn luyện của học sinh tăng lên rõ rệt, nhất là chất lượng học sinh khá giỏi.
- Lãnh đạo nhà trường cơ bản đã quan tâm đến HĐTNST và hoạt động này cũng đã mang lại một số kết quả tốt. Nó chứng tỏ có sự thay đổi tích cực trong nhận thức của cán bộ, giáo viên và học sinh.
- Đã phối hợp được với các lực lượng trong và ngoài trường để tổ chức HĐTNST. Trong đó phụ huynh và các đoàn thể xã hội thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi và có sự đóng góp để nhà trường tổ chức tốt các HĐTNST cho học sinh.
- Đã có kế hoạch tổ chức HĐTNST: Nhà trường đã có kế hoạch tổ chức và dự kiến xu hướng phát triển của các hình thức HĐTNST, đưa hoạt động này đi vào nề nếp, sắp xếp có tính chuyên môn hoá, tạo sự tự giác chấp hành các chủ trương của nhà trường.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ GV cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trong đó có HĐTNST, giúp nhà trường tổ chức thành công các HĐTNST cho học sinh. Nhà trường có đội ngũ cán bộ quản lý sâu sát về chuyên môn, HĐTNST được tổ chức ở các nhà trường thực sự tạo ra bước chuyển biến về chất lượng. Nếu có những biện pháp động viên, khích lệ phù hợp thì chắc chắn kết quả thu được còn cao hơn, số học sinh tham gia còn nhiều hơn.
- Đã tranh thủ được sự quan tâm, tạo điều kiện, chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương, của Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo, của UBND đến hoạt động giáo dục nói chung và HĐTNST nói riêng.
- Nhà trường đã tổ chức nhiều hình thức HĐTNST ở nhiều môn học, liên môn khác nhau.
2.4.2. Những điểm yếu
- Năng lực quản lí, tổ chức HĐTNST của đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường và giáo viên còn có những hạn chế, đặc biệt là kỹ năng tổ chức hoạt động và năng lực điều phối hoạt động của học sinh.
Thời điểm hiện tại các nhà trường còn có nhiều bộ môn còn chưa có giáo viên giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ để thu hút học sinh vào hoạt động mà mình phụ trách, chưa biết gắn kết các bộ môn có liên quan cùng tổ chức để tạo sức hấp dẫn cho học sinh, sự phối hợp trong và ngoài nhà trường chưa tốt.
Học sinh trong giai đoạn này có sự thay đổi về tâm lí nên nhiều học sinh thể hiện mình thái quá trước các bạn nhưng cũng có những học sinh ngại thể hiện, tự cô lập mình trước tập thể, ngại giao tiếp.
- Hạn chế về hình thức tổ chức HĐTNST: Hình thức tổ chức HĐTNST nhìn chung còn đơn điệu, nghèo nàn, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động thiếu thốn.
- Kế hoạch tổ chức HĐTNST còn mang tính hình thức, chưa đi sâu vào nghiên cứu hứng thú của học sinh đối với các vấn đề liên quan, xây dựng chương trình còn chưa thể hiện tính sáng tạo, cập nhật thông tin của xã hội chưa cao.
Các điều kiện cho HĐTNST còn chưa được đầu tư thoả đáng. Chỉ đạo và giám sát HĐTNST còn chưa sát, với những bộ môn giáo viên ít kinh nghiệm, chưa chỉ dẫn cho họ cụ thể, việc giám sát, nhắc nhở còn chưa được làm thường xuyên. Trong mỗi hoạt động việc kiểm tra còn mang tính hình thức. Sau mỗi hoạt động, vì lý do công việc bề bộn nên việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm còn chưa được coi trọng.
Nguồn lực phục vụ cho HĐTNST còn hạn chế, nhà quản lý chưa huy động được các nguồn lực từ cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội. Nguồn kinh phí cho việc tổ chức HĐTNST còn ít nên việc khen thưởng còn chưa kịp thời.
- Hạn chế trong công tác tổ chức, chỉ đạo hoạt động chưa đồng bộ còn có một số nội dung chưa được tiến hành thường xuyên. Tổ chức, quản lý chỉ đạo còn chưa chặt chẽ, việc kiểm tra, đánh giá chưa thường xuyên, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức.
2.4.3. Nguyên nhân
Nhận thức của một bộ phận giáo viên về vai trò và ý nghĩa của HĐTNST trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho HS chưa sâu sắc. Vì vậy, vẫn còn những học sinh chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của HĐTNST. Một số GV còn thiếu nhiệt tình, ngại đổi mới, một số khác thì hạn chế về năng lực, thiếu sáng tạo trong công việc nên không đầu tư cho hoạt động.
Áp lực thực hiện nội dung chương trình GD chính khóa cao, dẫn đến ngại tổ chức HĐTNST. Cơ chế kiểm tra, đánh giá chưa tạo động lực cho hoạt động, chưa có chế tài xử lý nếu không tổ chức hoạt động.
2.4.4. Các vấn đề cần giải quyết
Qua việc phân tích những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân dẫn đến những điểm yếu đó tôi nhận thấy những vấn đề cần giải quyết như sau:
- Phải nâng cao hơn nữa nhận thức của giáo viên, học sinh về HĐTNST trong nhà trường.
- Chú trọng việc bồi dưỡng năng lực tổ chức HĐTNST của giáo viên: lập kế hoạch cụ thể, xây dựng chương trình, chuẩn bị các yếu tố phục vụ cho HĐTNST, phân công nhiệm vụ,...
- Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý: duyệt kế hoạch, kiểm tra, đánh giá, khen thưởng,…để có khả năng quản lý tốt các HĐ trong trường trong đó có HĐTNST;
- Hình thức, nội dung của các HĐTNST phải phong phú; đa dạng; phù hợp với nhu cầu tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, yêu cầu đổi mới của xã hội, sự đổi mới phương pháp dạy học.
- Phải tạo dựng được sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: Gia đình- nhà trường-xã hội.
- Giải quyết được vấn đề kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho HĐTNST.
Kết luận chương 2
Qua nghiên cứu hồ sơ quản lý, điều tra khảo sát, phỏng vấn, xử lý các số liệu ở các trường THCS huyện Thanh Hà, thông qua các đối tượng là CBQL, GV, HS và các lực lượng xã hội khác có ảnh hưởng tới công tác tổ chức và quản lý HĐTNST cho học sinh, tác giả nhận thấy: Các trường THCS huyện Thanh Hà đã tổ chức được HĐTNST theo một số hình thức và phương pháp nhất định. Trong quản lý đã tiến hành lập kế hoạch hoạt động; phân công và phối hợp các lực lượng trong việc thực hiện; Thường xuyên đôn đốc, động viên, bước đầu tạo điều kiện cho GV trong tổ chức HĐTNST. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực hiện các hoạt động GD trong nhà trường, HĐTNST ở các trường trường THCS huyện Thanh Hà vẫn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức; nội dung và hình thức tổ chức HĐTNST cho học sinh còn nghèo nàn, đơn điệu. Việc quản lý hoạt động HĐTNST của đội ngũ CB, GV còn chưa đi vào nề nếp và có chiều sâu, chưa thực sự đóng góp nhiều cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
HĐTNST chưa được thực hiện một cách toàn diện khoa học, từ việc xây dựng chương trình kế hoạch, bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GV, huy động các lực lượng giáo dục, kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả của HĐTNST và ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Nguyên nhân là do sự nhận thức chưa đầy đủ về vai trò tầm quan trọng của HĐTNST đối với môn học, đối với sự phát triển bền vững và toàn diện nhân cách trí tuệ học sinh của một bộ phận giáo viên, học sinh nhà trường. HĐTNST chưa phải là yêu cầu bắt buộc đối với môn học.
Mặt khác CBQL nhà trường cũng chưa áp dụng các biện pháp quản lý HĐTNST một cách đồng bộ dẫn đến đến sự đơn điệu, nghèo nàn về nội dung và hình thức hoạt động nên chưa thu hút được nhiều HS tham gia từ đó hiệu quả mang lại không cao.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động HĐTNST ở các trường THCS huyện Thanh Hà, tác giả đã xác định một số vấn đề cần giải quyết; Đây là cơ sở để tác giả đề xuất các biện pháp quản lý ở chương 3.
Chương 3
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG CÁC TRƯỜNG THCS HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp
Trên cơ sở lý luận về quản lý HĐTNST và thực tiễn công tác quản lý HĐTNST trong các trường THCS huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, luận văn đề xuất một số biện tăng cường biện pháp quản lý HĐTNST. Các biện pháp đề xuất phải đảm bảo theo các nguyên tắc sau:
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của HĐTNST
Các biện pháp cần phải nhằm vào việc hình thành và phát triển nhân cách của HS theo đúng mục tiêu giáo dục của cấp học, được thể hiện rõ trong mục tiêu giáo dục tổng thể, cũng như mục tiêu chương trình các môn học cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi mục tiêu GD của nhà trường phải là “thước đo”, là chuẩn để đánh giá hiệu quả của các giải pháp. Vì mục tiêu được phân thành nhiều cấp độ khác nhau (mục tiêu tổng quát, mục tiêu bộ phận) cho nên các biện pháp đề ra phải phân thành nhiều cấp theo tính chất quy mô của các hoạt động và theo từng giai đoạn cụ thể thì hiệu quả sẽ cao hơn.
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học của HĐTNST
Các biện pháp quản lý HĐTNST của hiệu trưởng các trường THCS cần phải được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học, đặc biệt là lý luận khoa học quản lý, vận dụng những thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau như:
Tâm lý học, Giáo dục học, Xã hội học, Điều khiển học, Tổ chức lao động khoa học,… Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo tính hệ thống và tính tổng hợp trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp.
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Các biện pháp đề xuất phải thể hiện và cụ thể hóa đường lối, phương châm giáo dục của Đảng và Nhà nước, phù hợp với qui định của ngành giáo dục trong quá trình quản lý. Muốn vậy phải căn cứ vào Luật Giáo dục; Điều lệ nhà trường; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 và các biện pháp cụ thể để thực hiện chiến lược giáo dục với trọng tâm là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Các biện pháp đề xuất phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hoạt động TNST, nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý.
Việc đề xuất các biện pháp phải phù hợp với các điều kiện hiện có, phù hợp với đặc trưng của loại hình hoạt động này và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi HS THCS. Ngoài ra, các biện pháp phải phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý của nhà trường, trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt các quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ
Các biện pháp cần phải được xây dựng một cách có hệ thống quy trình thực hiện phải có tính liên hoàn nhằm đảm bảo phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường, gia đình và xã hội phải liên kết, phối hợp chặt chẽ và thống nhất cả về mục đích, nội dung và hình thức tổ chức hoạt động.
Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp đề xuất không được mâu thuẫn nhau, không được tách rời, riêng rẽ mà phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể nhằm tác động tới nhiều mặt khác nhau của vấn đề đang được quản lý. Các biện pháp đề xuất phải đảm bảo tính đồng bộ giữa ý tưởng, mục tiêu, nội dung, giải pháp và kết quả; đồng bộ từ công tác quản lý, tổ chức, triển khai và các điều kiện để thực hiện. Do vậy các biện pháp quản lý muốn đem lại tính khả thi và hiệu quả thì phải đảm bảo tính đồng bộ.
3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nghiên cứu khi đề xuất biện pháp mới phải kế thừa những biện pháp quản lý đã và đang thực hiện. Sự kế thừa có thể là toàn bộ các biện pháp, có thể là những điểm hay, tối ưu của một biện pháp tránh phủ định hoàn toàn và tạo ra những hệ thống mới không dựa trên thực tiễn, thực trạng biện pháp cũ đã có.
Đảm bảo tính kế thừa khi đề xuất biện pháp quản lý yêu cầu nhà quản lý trong chỉ đạo thực tiễn quản lý phải thấy được những biện pháp quản lý mới trên cơ sở nền tảng của các biện pháp quản lý cũ đang tiến hành. Sự đề xuất biện pháp phải theo kịp và phù hợp với thực tế quản lý giáo dục để có những biện pháp mới phù hợp và sát với thực tế.
3.1.6. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi
Đảm bảo tính khả thi khi đề xuất các biện pháp đòi hỏi: Biện pháp quản lý đề xuất phải sát với thực tế giáo dục, quản lý giáo dục, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của nhà trường.
Khi xây dựng các biện pháp quản lý phải đảm bảo tính khoa học trong quy trình quản lý với các bước tiến hành cụ thể, chính xác. Các biện pháp phải phù hợp với thực tế, được thực hiện rộng rãi và tiếp tục được hoàn chỉnh để ngày càng hoàn thiện.
Tính khả thi khi đề xuất biện pháp quản lý là điều kiện cần và đủ về mặt nguyên tắc phương pháp luận để biện pháp quản lý đề xuất có giá trị thực tiễn và trở thành hiện thực trong quản lý.
3.1.7. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của HĐTNST
Các biện pháp phải phù hợp cho việc quản lý tổ chức HĐTNST. Đồng thời phải thiết thực phục vụ cho đổi mới giáo dục hiện nay ở trường THCS nhằm phát triển năng lực của học sinh đáp ứng yêu cầu xã hội về nguồn nhân lực và đáp ứng nhu cầu hoàn thiện nhân cách của học sinh.
3.1.8. Đảm bảo sự tham gia của các chủ thể và các lực lượng giáo dục
Một trong những yêu cầu đổi mới GD của chúng ta hiện nay là phát huy được tính tích cực của HS, HS là chủ thể nhận thức, chủ thể GD trong mọi hoạt động. Trong việc quản lý HĐTNST ở trường THCS, có nhiều chủ thể và lực lượng GD tham gia tổ chức như GVCN lớp, TPT đội, GVBM, Đoàn Thanh niên, Hội cha mẹ HS, các tổ chức cộng đồng địa phương, các cơ quan chức năng nhưng chủ thể tích cực chính là bản thân HS. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ lớp, chi đội, các nhóm nòng cốt, các cá nhân có năng lực nổi bật trong các hoạt động văn nghệ thể thao. HĐTNST phải thu hút được tất cả HS tham gia, đặc biệt phát huy tính tích cực của cá nhân dưới vai trò điều khiển, cố vấn của người GV. Điều quan trọng học sinh không chỉ là chủ thể tham gia mà đóng vai trò của người tổ chức HĐTNST mới đạt hiệu quả cao, mới góp phần nâng cao chất lượng GD.
Để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, việc tổ chức hoạt động theo từng nhóm nhỏ, theo qui mô lớp là rất cần thiết. Trong mọi hoạt động mà HS tham gia tổ chức, các em phải giữ vai trò chủ thể. HS tự thực hiện, giải quyết các tình huống nảy sinh, có sự cố vấn của người thầy. Nhà GD giúp các em định hướng mục tiêu, nội dung, cách thức hoạt động. Trên cơ sở ấy HS tự thiết kế chương trình hoạt động, tự triển khai hoạt động, tự đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm. Có thể lúc đầu các em chưa quen, xong nếu biết kiên trì điều chỉnh và biết nhận ra hạn chế, yếu điểm thì sẽ dần khắc phục, tìm được cách giải quyết tốt hơn. Vấn đề ở chỗ, nhà GD phải thực sự có niềm tin ở HS, tôn trọng các em, tạo ra được quan hệ phù hợp giữa HS với GV. Quan hệ giữa thầy giáo, cô giáo và HS là quan hệ hợp tác, cộng đồng trách nhiệm, tạo cho HS có niềm tin hơn, mạnh dạn hơn, sáng tạo hơn và khẳng định được tính chủ thể của mình trong hoạt động.
3.2. Một số biện pháp quản lý hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong các trường THCS huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý HĐTNST tại 6 trường THCS, dựa trên các nguyên tắc trên, luận văn đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý HĐTNST của HS tại các trường THCS huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.