Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Giáo Dục Giới Tính Cho Học Sinh Thcs

hội của Việt Nam hiện nay, trách nhiệm cá nhân, tổ chức xã hội trong thực hiện bình đẳng giới.

Giáo dục bảo đảm tính lôgic: Các kiến thức về GDGT phải có mối quan hệ lôgic chặt chẽ với các kiến thức của bài học, tránh việc áp đặt, gắn ghép một cách gượng ép.

Giáo dục bảo đảm tính phù hợp (tính vừa sức): Các kiến thức GDGT khi lồng ghép vào bài học phải đảm bảo phù hợp với nhận thức, trình độ, tâm lí lứa tuổi. Khi dạy các kiến thức này không nên đi quá sâu vừa làm ảnh hưởng nội dung bài học, vừa kích thích tính tò mò của HS dễ dẫn đến tác dụng ngược.

Thứ hai, chỉ đạo thực hiện giáo dục giới tính thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

Tổ chức cho HS nghe nói chuyện về các GDGT. Người nói chuyện phải là những giáo viên có kinh nghiệm trong giảng dạy GDGT, bác sĩ, chuyên gia về tâm lý,... Mục đích các buổi nói chuyện là giúp các em nhận biết kiến thức sâu hơn về giới tính.

Tổ chức hội thi thuyết trình, hùng biện trong phạm vi toàn trường nhằm tìm ra các tuyên truyền viên tích cực cho công tác này. Hội thi này vừa tạo được không khí thi đua, tìm hiểu và sự tham gia của các thành viên trong lớp học nhằm chọn cử đại diện tham gia, vừa rèn cho các em khả năng thuyết trình, phát triển ngôn ngữ nói.

Thi sáng tác tranh ảnh, viết văn, thơ, soạn kịch bản đề tài GDGT. Thi văn nghệ: múa hát, đóng kịch, kể chuyện, …

Thi hái hoa dân chủ tìm hiểu về giới tính, tâm lý lứa tuổi…Mỗi hình thức có những ưu điểm và tồn tại khác nhau, khi chỉ đạo, hiệu trưởng cần nhấn mạnh việc lực chọn hình thức nào cho phù hợp với nội dung, với tâm lý HS, với khả năng và điều kiện thực tế của trường, lớp. Tất nhiên việc lực chọn phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản như: chuyển tải và khắc sâu được kiến thức, tác dụng GD cao, hấp dẫn và lôi cuốn tất cả HS cùng tham gia.

Ngoài các hình thức GD mang đề tài phòng chống ma túy, Hiệu trưởng cũng nên quan tâm chỉ đạo GV và Đoàn, Đội tổ chức các Câu lạc bộ em yêu thích (các môn văn hoá, năng khiếu, thể dục,…), các sân chơi theo các chương trình truyền hình (chiếc nón kì diệu, vượt qua thử thách, rung chuông vàng,..), tìm hiểu khoa học, tìm hiểu văn hóa quê hương, giao lưu văn hoá, văn nghệ, hoạt động thể dục thể thao, vệ sinh trường lớp, khu dân cư,...Những hoạt động này sẽ thu hút sự ham mê,

gắn bó của các em với nhà trường, kích thích sự tìm tòi, hiểu biết, khám phá thế giới của lứa tuổi THCS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.

Thứ ba, chỉ đạo thực hiện giáo dục giới tính thông qua hoạt động tuyên truyền, sinh hoạt tập thể cho học sinh.

Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, trao đổi, thảo luận, phổ biến kinh nghiệm về phương pháp GDGT cho học sinh; các hình thức tổ chức GD sinh động, có khả năng khắc sâu kiến thức; cách phát hiện và xử lý các tình huống, cá trong quan hệ khác giới; cách khai thác thông tin; cách quản lý thời gian biểu và thực hiện nội quy cũng như nhiệm vụ học tập của HS; cách phối hợp với các lực lượng GD khác,….

Quản lí hoạt động giáo dục giới tính cho học sinh ở trường trung học cơ sở Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay - 5

Sưu tầm, cung cấp các tài liệu liên quan đến công tác GDGT để GV tự nghiên cứu như: tài liệu cung cấp kiến thức cơ bản về GDGT; các tranh ảnh, băng hình, mẫu vật, biểu bảng, số liệu,… có liên quan; văn bản về chủ trương, đường lối, của ngành GD về công tác GDGT,… Đây là những căn cứ có tính pháp quy, là “cái gậy” chống để GV có đủ cơ sở pháp lý khi thực hiện GDGT trong nhà trường. Sau đó, Hiệu trưởng có thể tổ chức tọa đàm, hoặc yêu cầu GV viết thu hoạch.

Thứ tư, chỉ đạo bồi dưỡng nâng cao năng lực giáo viên về giáo dục giới tính cho học sinh THCS

Không có GV chuyên trách, do các kiến thức GDGT gần gũi với các bộ môn GDCD, Sinh vật và Ngữ văn nên đa số các nhà trường đều giao công tác này cho GV các bộ môn trên hoặc GV chủ nhiệm lớp đảm nhiệm. Mặt khác đây là một nội dung GD mới, tài liệu giảng dạy quá ít, GV lại chưa có nhiều kinh nghiệm cho nên quản lý việc bồi dưỡng, tập huấn CBQL, GV, NV trong trường về GDGT là công việc mà Hiệu trưởng cần quan tâm. Việc bồi dưỡng này cần có kế hoạch cụ thể trong từng tháng, từng kỳ và trong cả năm và có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như:

Phổ biến các loại văn bản chỉ đạo cấp trên, các văn bản pháp quy của Nhà nước, các tài liệu về công tác GDGT.

Mời các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong công tác GDGT (chuyên gia tâm lý, bác sĩ…) về nói chuyện cho GV nhằm giúp GV nâng cao những hiểu biết về GDGT, có thêm kĩ năng GD học sinh phù hợp với lứa tuổi các em.

Về thời gian bồi dưỡng, tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện từng trường, Hiệu

trưởng sắp xếp cho phù hợp. Với các văn bản chỉ đạo của cấp trên thì Hiệu trưởng cần cập nhật kịp thời nhằm bảo đảm tính thời sự của công tác này.

Thứ năm, chỉ đạo phối hợp các lực lượng để giáo dục giới tính cho học sinh THCS. Tham gia công tác GDGT cho học sinh không chỉ có GV mà còn rất nhiều lực lượng GD khác ở trong và ở ngoài nhà trường. Lực lượng GD ở trong nhà trường là Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội TNTP Hồ Chí Minh,… Lực lượng GD ngoài nhà trường bao gồm: gia đình, chính quyền địa phương, công an, Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, y tế, trung tâm văn hóa cộng đồng, Hội chữ thập đỏ, Đoàn thanh niên,….

Để công tác GDGT cho học sinh đạt hiểu quả cao thì khi phối hợp các lực lượng cần thực hiện theo nguyên tắc: cộng tác trên cơ sở tôn trọng chức năng, nhiệm vụ, vai trò của nhau, không được làm ảnh hưởng lẫn nhau, vì nhiệm vụ GD chung.

1.4.2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục giới tính cho học sinh THCS

Trong quản lý giáo dục giới tính việc kiểm tra đánh giá có ý nghĩa không chỉ đối với nhà quản lý giáo dục mà còn có ý nghĩa đối với học sinh. Vì qua kiểm tra đánh giá GDGT của giáo viên, từng em học sinh hiểu rõ hơn về những hoạt động GDGT của mình, khẳng định được mình trong sự hiểu biết về GDGT. Từ đó hoạt động tích cực hơn, tự giác hơn trong GDGT, biết tự điều chỉnh hành vi, cách xử lý các mối quan hệ về giới và giới tính của mình cho phù hợp với yêu cầu trong thực tiễn xã hội.

Hiệu trưởng có thể kiểm tra định kỳ, thường xuyên, đột xuất, trực tiếp hoặc gián tiếp, cần xây dựng chuẩn đánh giá phù hợp với đặc điểm của nhà trường, đặc điểm tâm lý từng lứa tuổi thì việc kiểm tra đánh giá mới khách quan công bằng rõ ràng.

Hiệu trưởng có kế hoạch kiểm tra giáo dục giới tính thông qua dạy học các môn học chiếm ưu thế bằng hình thức dự giờ, bằng lấy ý kiến phản hồi từ học sinh, kiểm tra giáo án của giáo viên trước khi lên lớp vv…

Kiểm tra các nhiệm vụ quán triệt và tổ chức thực hiện của tổ bộ môn, sinh hoạt chuyên đề, kế hoạch chuyên môn của giáo viên.

Kiểm tra công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên, giáo án tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, sổ nhật ký chủ nhiệm vv…

1.4.2.6. Quản lý xây dựng môi trường tâm lý, môi trường cơ sở vật chất phục vụ công tác GDGT

Quản lý GDGT thông qua chương trình SGK tài liệu đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Nhà trường có kết hợp với các tổ chức, các lực lượng sư phạm trong nhà trường nhằm thực hiện tốt hoạt động giáo dục giới tính cho các em học sinh, liên tục đổi mới phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục giới tính, đẩy mạnh hoạt động tự giáo dục của các em học sinh, tích cực xây dựng và cải tạo môi trường giáo dục trong các nhà trường, bồi dưỡng tri thức giới tính và nhân cách cho học sinh, tổ chức các hoạt động phù hợp cho sự phát triển của lứa tuổi học sinh THCS.

Quản lý việc tổ chức thực hiện các chuyên đề GDGT như: về tình bạn, tình yêu, tuổi dậy thì, nâng cao hiểu biết về tri thức giới tính cho các em học sinh. Nhà trường phải định hướng lối sống lành mạnh cho các em học sinh: giáo dục phòng chống ma túy, nâng cao nhận thức cho các em về tác hại của ma túy, phòng chống căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, phòng chống xâm hại tình dục, trang bị cho các em học sinh những thông tin chính thống, kiến thức, kỹ năng cơ bản về GDGT và phương tiện GDGT, để các em học sinh luôn có nhận thức đúng đắn và đưa ra những quyết định, quan niệm hiểu biết về giới tính, góp phần hạn chế tối đa những hậu quả đáng tiếc do thiếu hiểu biết về GDGT.

Quản lý việc tổ chức hoạt động của cán bộ GDGT và phòng tư vấn học đường trong nhà trường: các nhà trường THCS phải nhanh chóng xây dựng và đầu tư cơ sở vật chất cho phòng tư vấn học đường của trường mình, để kịp thời tư vấn cho các em học sinh những vấn đề về tâm lý, về giới tính, tình bạn, tình yêu, tình dục, giải đáp thắc mắc về lứa tuổi dậy thì một cách hiệu quả nhất. Phòng tư vấn học đường cần đặt ở vị trí thuận lợi cho học sinh, bố trí nhân sự có năng lực, trình độ, kỹ năng GDGT, am hiểu về tâm lý giới tính để sẵn sàng chia sẻ, tâm tình, đồng hành cùng các em học sinh nhà trường. Nhà lãnh đạo quản lý quản lý tốt hoạt động của phòng tư vấn học đường, tổ chức phong phú các hình thức tư vấn, nội dung tư vấn GDGT phù hợp sẽ góp phần to lớn giải tỏa tâm lý cho các em học sinh, hạn chế những suy nghĩ tiêu cực về GDGT, loại bỏ những biểu hiện lệch lạc về GDGT trong tâm sinh lý của các em học sinh.

Quản lý cơ sở vật chất của nhà trường trong hoạt động GDGT: Nhà trường phải đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị dạy học thiết yếu cho GDGT như: sách, tài liệu, tivi, đầu máy, băng đĩa, tranh ảnh trực quan, phòng học…để đảm bảo cho công tác GDGT cho các em học sinh nhà trường diễn ra trong điều kiện thuận lợi nhất. Giáo viên tham gia giảng dạy GDGT phải biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy GDGT, để cho học sinh hứng thú với bài giảng với các nội dung GDGT. Giáo viên có thể sử dụng các phần mềm tiện ích giáo dục trên máy tính, trình chiếu để lồng ghép các đoạn video, phim ảnh minh họa về giới tính, lồng ghép các mô hình đạo cụ trực quan sinh động về GDGT vào nội dung giảng dạy, từ đó người giáo viên giáo dục cho các em học sinh trách nhiệm đối với việc học tập các kỹ năng GDGT và rèn luyện của học sinh, phòng tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra từ sự thiếu hiểu biết về giới và giới tính.

Quản lý việc phối hợp GDGT với hội PHHS: Thông qua các hoạt động tư vấn, giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho hội PHHS về công tác GDGT, nhà trường sẽ phối hợp với hội PHHS để thông qua đó hướng dẫn, giúp đỡ các em học sinh tìm hiểu được nhiều hơn các kiến thức về giới và giới tính, từ đó giúp các em học sinh phát triển giới tính đúng hướng, chủ động trong tình cảm, trong tình bạn và tình yêu, trong quan hệ giới tính. Cha mẹ học sinh phải là “người bạn lớn”, “người bạn đồng hành” cùng với con trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, giúp con em mình có một vốn kiến thức phong phú về GDGT và trưởng thành một cách khỏe mạnh, trong sáng.

Quản lý việc học, tự bồi dưỡng, tự giáo dục giới tính của các em học sinh: Qua các nội dung GDGT được nhà trường, gia đình…cung cấp, các em học sinh phải luôn có ý thức tự bồi dưỡng, tự tìm hiểu kiến thức về giới tính một cách khoa học, để từ đó tự hoàn thiện nhân cách của chính bản thân mình.

1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục giới tính cho học sinh THCS

1.5.1. Nhận thức về giáo dục giới tính và quản lý giáo dục giới tính

Về tâm sinh lý học sinh

Học sinh THCS là lứa tuổi mới lớn - vị thành niên, ở giai đoạn này các em

học sinh đang cơ sự phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm sinh lý. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang xu hướng phát triển thành người lớn - người trưởng thành. Nên phần lớn các em đều có xu hướng tự khẳng định bản thân mình, có ý thức vươn lên làm chủ cuộc sống và làm chủ bản thân. Ở giai đoạn này của các em học sinh, sự chỉ bảo, dạy dỗ, kiểm tra, kiểm soát, quản lý sát sao của người lớn (trong đó có cha mẹ và các thầy cô giáo) luôn làm các em học sinh tỏ ra khó chịu, đôi khi các em lại có biểu hiện của tâm lý chống đối. Đây cũng là giai đoạn các em học sinh rất hay mơ mộng, thích nghiên cứu tìm tòi, khám phá phát hiện những điều chưa biết, những vấn đề mới mẻ của cuộc sống thường ngày.

Đồng thời, ở lứa tuổi này các em cũng muốn vượt ra khỏi sự ràng buộc, chăm sóc của cha mẹ. Mặt khác, ở lứa tuổi này, nhu cầu giao tiếp của các em rất lớn đặc biệt là sự giao tiếp với bạn bè khác giới. Từ đó mà hình thành lên các nhóm bạn cùng sở thích, khi không có sự hướng dẫn kèm cặp của người lớn thường dẫn đến những nhận thức lệch lạc về lối sống, hành vi, quan hệ với bạn khác giới.

Về phía gia đình

Hiện nay, đại đa số các gia đình đều nghiêm túc thực hiện chính sách dân số nên sinh ít con, điều kiện kinh tế của nhiều gia đình lại phát triển, nên dẫn đến một số gia đình đã nuông chiều con một cách thái quá so với bạn bè cùng trang lứa. Nhiều cha mẹ do nhận thức lệch lạc, không có tri thức về giáo dục con cái, đặc biệt là kiến thức về giáo dục giới tính, hoặc là còn e ngại, xấu hổ khi đề cập đến vấn đề giáo dục giới tính cho con trẻ. Tất cả những cái đó đã tác động không nhỏ đến sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh trong quan hệ với bạn bè và người khác giới.

Về phía nhà trường

GDGT hiện nay chưa được coi là môn học chính thức trong các nhà trường mà chủ yếu vẫn được lồng ghép ở các môn giáo dục kỹ năng sống, giáo dục công dân, sinh học… Hình thức giáo dục thì khô cứng, giáo điều, mang tính hàn lâm thiếu hấp hấp dẫn, thực trạng giáo viên làm nhiệm vụ giáo dục giới tính không có kiến thức đầy đủ về giới tính, thậm chí còn đỏ mặt khi nói về những bộ phận sinh sản là khá phổ biến.

Nguồn tài chính, cơ sở vật chất phục vụ giáo dục giới tính là điều kiện cần

thiết cho tổ chức hoạt động giáo dục giới tính nếu các hoạt động giáo dục giới tính chưa được đầu tư một cách thỏa đáng trong các nhà trường thì hiệu quả giáo dục giới tính sẽ không cao, nếu nguồn tài chính dồi dào sẽ là cơ sở, động lực tổ chức có hiệu quả giáo dục giới tính trong các nhà trường.

1.5.2. Năng lực chuyên môn của giáo viên và cán bộ quản lý

Một số cán bộ quản lý và giáo viên thường có những định kiến, ngại ngùng khi đề cập về vấn đề giới tính trong nhà trường, một số thầy cô cho là việc giáo dục giới tính là việc của tự nhiên, cứ từ từ lớn lên rồi học sinh, không những thế một số nhà quản lý còn sử dụng các biện pháp hành chính thái quá; sự lạm dụng quyền lực của các thầy cô giáo, nhà quản lý; sự thiếu gương mẫu trong mô phạm giáo dục; việc đánh giá kết quả, khen thưởng, kỷ luật thiếu khách quan và không công bằng; không xem xét vấn đề tình yêu, tình dục của vị thành niên một cách nghiêm túc, sự phối hợp giáo dục sư phạm giữa các tổ chức khác trong nhà trường không thống nhất; sự phối hợp không đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội... đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giáo dục giới tính cho học sinh.

1.5.3. Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông

Sự ra đời của công nghệ thông tin là sự tích hợp đồng thời các tiến bộ về công nghệ và tổ chức thông tin, đem đến nhiều ảnh hưởng tích cực cho sự phát triển của giáo dục. Công nghệ thông tin và đặc biệt là sự phát triển của internet mở ra một kho kiến thức vô cùng đa dạng và phong phú cho người học và người dạy, giúp cho việc tìm hiểu kiến thức đơn giản hơn rất nhiều, cải thiện chất lượng học và dạy. Công nghệ thông tin thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức và tư duy. Với sự phát triển khoa học và công nghệ hiện nay, các em học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin văn hoá, khoa học kỹ thuật trong nước và thế giới nên nhìn chung các em học sinh phát triển nhanh về nhiều mặt, có những hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông lại gây ra nhiều mặt trái đang báo động trong xã hội. Hiện nay, có nhiều trang web đưa những

tin tức, hình ảnh, video clip đồi trụy, thậm chí đưa hình ảnh của chính bản thân lên mạng để tìm kiếm đối tượng kết bạn tình gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống của thanh niên, học sinh, thậm chí đem lại những ý tưởng lệch lạc với những hậu quả khó lường. Cá em học sinh nghiện mạng online có những biểu hiện như xanh xao do thiếu ngủ, học lực yếu, sức khỏe kém sút, bị ảo tưởng …và nhiều em còn có hành vi bạo lực khi bắt chước các trò chơi trong các trò chơi game trên mạng, trong đó có cả game “tình dục”. Gần đây cũng có một số game thủ bị hoang tưởng đã chết do tự sát trong tình trạng mất kiểm soát. Đó là chứng bệnh tâm thần phân liệt thường hoang tưởng, bệnh trầm cảm. Không chỉ game bạo lực, hiện nay đang xuất hiện nhiều Game những hình ảnh nhân vật ăn mặc “mát mẻ”, “nghèo nàn”. Đây là vấn đề cảnh báo cho toàn xã hội cần can thiệp và ngăn chặn kịp thời vì tuổi trẻ hôm nay và mai sau, vì cuộc sống phát triển lành mạnh của chính các em học sinh.

Vì vậy, nhiệm vụ của các thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội khác phải kịp thời nắm bắt được tình hình học sinh và con em của mình, hướng các em vào sử dụng Internet cần tiếp thu thông tin có chọn lọc và cảnh giác trước những thông tin xấu. Nâng cao nhận thức đúng đắn cho các em học sinh về tính hai mặt của công nghệ thông tin để các em biết sàng lọc thông tin, biết khai thác và sử dụng thông tinh đúng và chuẩn xác phục vụ cho GDGT của bản thân các em.

1.5.4. Các yếu tố về văn hóa và phong tục tập quán

Giáo dục giới tính không là một khái niệm mới trong xã hội Việt Nam, nhưng vẫn chưa được đồng bộ từ gia đình đến nhà trường và xã hội. Nguyên nhân chính là giáo dục giới tính vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của các yếu tố văn hóa và phong tục tập quán.

Từ trước đến nay, người Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng bởi tâm lý phương Đông nên luôn né tránh vấn đề GD giới tính cho trẻ một cách tường tận. Cha mẹ lo lắng, e sợ nói chuyện tâm lý sớm sẽ khuyến khích cho trẻ có tính tò mò nên các nội dung GD giới tính thường bị gạt ra trong sinh hoạt gia đình. Vì vậy, yếu tố này chiếm 58,3% trong các yếu tố ảnh hưởng đến GD giới tính cho trẻ vị thành niên, nhất là trong lứa tuổi học sinh THCS.

Xem tất cả 154 trang.

Ngày đăng: 10/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí