là giờ đây, khi đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại thế giới – WTO và đang từng bước hoàn tất thủ tục để có thể mở cửa thị trường thị trường dịch vụ này trong vòng 3 năm tới theo như lời cam kết. Khi đó, logistics Việt Nam tất yếu là một bộ phận của logistics thế giới, là một mắt xích không thể thiếu được của mạng lưới logistics toàn cầu. Để hội nhập và cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đẩy nhanh tốc độ phát triển của hoạt động logistics. Mà tiền đề cho sự phát triển đó là các doanh nghiệp phải vạch ra được chiến lược cụ thể cho kế hoạch phát triển lâu dài. Đó là yêu cầu cũng là đòi hỏi cấp thiết đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận trong điều kiện hội nhập toàn cầu này.
3/ Phát triển logistics tại các DNGNVT có sự hỗ trợ của Nhà nước
Logistics được coi là một ngành dịch vụ mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung và chiến lược phát triển ngành dịch vụ nói riêng tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới chi phí của hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, thu nhập từ hoạt động kinh doanh logistics đóng góp một phần lớn vào GDP các quốc gia. Đồng thời dịch vụ logistics là một trong những ngành dịch vụ quan trọng, vì chi phí logistics chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân sự và phát triển của logistics sẽ kéo theo các ngành kinh tế khác phát triển như: ngành vận tải, hệ thống cảng biển, kinh doanh kho bãi… Vì vậy muốn phát triển hoạt động logistics tại Việt Nam, nhất thiết phải có sự tham gia của Chính phủ. Chính phủ phải là người tích cực tiên phong trong việc tạo lập một cơ sở hạ tầng – là điều kiện tiên quyết phát triển logistics – thông qua sự hỗ trợ cần thiết về chính sách, về vốn… cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận ứng dụng và phát triển logistics.
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ là người ban hàng các Luật, Nghị định nhằm hướng dẫn thi hành đối với mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực kinh doanh. Song
dịch vụ logistic ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một luật nào điều chỉnh. Ngay cả luật Thương Mại – một nguồn luật điều chỉnh về hoạt động logistics của hầu hết các quốc gia trên thế giới - thì luật Thương mại Việt Nam năm 2005 mới chỉ đề cập đến dịch vụ giao nhận vận tải, cho phép các daonh nghiệp nước ngoài đầu tư vào kinh doanh dịch vụ logistics theo nghĩa đơn thuần chứ chưa phản ánh được tính hệ thống của hoạt động này trong kinh doanh. Hay như nghị định 10/ 2001/ NĐ - CP ngày 19/ 3/ 2001 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ hàng hóa, quy định: nước ngoài có thể đầu tư vào dịch vụ giao nhận kho vận tối đa không vượt quá 49% , chứ không phải đề cập đến dịch vụ logistics. Như vậy cả Luật và Nghị định trước năm 2005 đều không đề cập đến dịch vụ logistics.
Để từng bước phát triển hoạt động logistics ở Việt Nam nói chung và ở các doanh nghiệp giao nhận vận tải nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành những nguồn luật điều chỉnh một cách kịp thời, để các doanh nghiệp yên tâm hoạt động. Đồng thời Chính phủ cần đưa ra các chính sách bảo hộ hợp lý giúp các doanh nghiệp vừa tiến hàng hội nhập vừa thúc đẩy ngành logistics nhanh chóng phát triển.
4/ Phát triển logistics tại các DNGNVT đòi hỏi sự phối hợp của các bộ, ngành có liên quan
Có thể thấy, logistics là một lọai hình dịch vụ tổng hợp, quá trình hoạt động có liên quan đến sự quản lý của nhiều bộ, ngành như: Giao thông vận tải, Thương Mại, Hải quan, Đo lường kiểm định… Song cũng chính do đặc điểm liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực này mà hiện nay các cơ chế, chính sách, pháp luật hết sức chồng chéo và thiếu đồng bộ.
Có thể bạn quan tâm!
- Sản Lượng Hàng Hóa Qua Cảng Đà Nẵng 6 Tháng Đầu Năm 2007
- Nguyên Nhân Của Tình Trạng Bất Cập Này
- Một Số Yêu Cầu Nhằm Phát Triển Hoạt Động Logistics Tại Các Dngnvt Việt Nam
- Dự Báo Nhu Cầu Logistics Trong Tương Lai Của Nền Kinh Tế Việt Nam
- Một Số Giải Phát Triển Logistics Tại Các Dngnvt Vn
- Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hoạt động Logistics tại các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Mặt khác, đến thời điểm này nước ta vẫn chưa có Nghị định quy định chi tiết luật Thương Mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Bên cạnh đó, các nghị định, quy định có liên quan của hải quan, thuế, dịch vụ vận tải, vận
tải đa phương thức… vẫn chưa thông thoáng, chưa thực sự tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Cùng với việc cải thiện hàng lang pháp lý, việc thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật của các doanh nghiệp logistics cũng là vấn đề phải quan tâm. Bởi hiện nay, doanh nghiệp của chúng ta chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho công tác pháp chế, chưa biết sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền lợi thích đáng của mình.
Từ thực trạng trên, Việt Nam muốn thúc đẩy sự phát triển logistics chẳng còn cách nào khác là phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, mỗi ban ngành có liên quan, tránh sự chồng chéo, cồng kềnh. Từ các chức năng riêng đó, các Bộ, ban ngành có trách nhiệm hướng dẫn các doanh nghiệp thi hành, để không chỉ nâng tầm hiểu biết của doanh nghiệp nói riêng, mà còn hướng các doanh nghiệp làm việc dưới sự cưỡng chế của pháp luật. Đây là đòi hỏi bức thiết nếu chúng ta muốn phát triển dịch vụ logistics trong xu thế cạnh tranh và hội nhập ngày nay.
II/ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VIỆT NAM VÀ
PHƯỚNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG LOGISTIC TẠI CÁC DNGNVT
1/ Định hướng phát triển logistics tại Việt Nam đến năm 2020
1.1 Mục tiêu phát triển
Cũng như các quốc gia đang phát triển, trong những năm gần đây ở Việt Nam, trên thị trường kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải người ta đề cập nhiều đến dịch vụ logistics. Thực tế, Việt Nam đã từng có 67 % các doanh nghiệp bước đầu thử nghiệm áp dụng cung cấp dịch vụ logistics, và 22 % các doanh nghiệp đang triển khai để đưa vào ứng dụng dịch vụ này trong hoạt động kinh doanh của mình. Dư báo trong một tương lai không xa, doanh thu của dịch vụ logistics sẽ đóng góp từ 15 – 20 % vào GDP của đất nước. [24]. Đứng trước kết quả đó, một mô hình chiến lược phát triển logistics tại Việt Nam phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là nhu cầu cấp bách cho những năm tới khi hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới đã tìm được cho mình một mô hình phát triển. Nghiên cứu kỹ các tiêu chí phát triển hoạt động logistics của các nước trong khu vực và các nước có mô hình logistics phát triển trên thế giới cho thấy, không có tiêu chí chung đánh giá trình độ phát triển logistics cho tất cả các nước. Căn cứ vào điều kiện địa lý, địa hình, năng lực đầu tư, nguồn nhân lực, trình độ phát triển công nghệ, các chính sách vĩ mô của Chính phủ… mỗi quốc gia xây dựng chiến lược phát triển logistics riêng phù hợp với điều kiện của mình trên cơ sở phát huy các thế mạnh và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và hội nhập vào mạng logistics toàn cầu.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành giao nhận, mục tiêu phát triển hoạt động logistics đến năm 2010 là phấn đấu tiếp cận với trình độ của cac nước trong khối ASEAN và khu vực. Xây dựng ngành logistics Việt Nam vững mạnh thông qua việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, nâng cấp các cảng biển, phát triển đội tàu biển, đa dạng hóa các phương thức giao nhận vận tải: phát triển cảng hàng không, đội xe container; phát triển vận tải đường sông, đường bộ; nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội về logistics và đặc biệt tiến tới mô hình logistics điện tử.
Hiện nay, các công ty logistics nước ngoài đang thâu tóm 80 % thị phần logistics nội địa, cung cấp dịch vụ logistics cho gần 90 % khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 100 % khối lượng hàng công trình và hàng gia công xuất khẩu. [3]. Mục tiêu của chúng ta đến năm 2015 ngành logistics Việt Nam phải hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường logisics trong nước và tiến tới tham dự vào việc phục vụ khách hàng vận chuyển hàng hóa cũng như đầu tư hoạt động logistics sang nước thứ ba vào năm 2020. [7].
1.2 Định hướng phát triển
Tại Việt Nam hiện nay, logistics tuy là một lĩnh vực mới mẻ song đã và đang thu hút được sự quan tâm chú ý của rất nhiều bộ phận trong xã hội từ các nhà quản lý, các viện nghiên cứu, các trường đại học cho đến cộng đồng các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và giao nhận. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn và hạn chế song cơ hội và điều kiện phát triển hệ thống logistics tại Việt Nam cũng là rất lớn. Hiện tại các ngành, các cấp đang triển khai nhiều kế hoạch rất có lợi cho sự phát triển của logistics trong tương lai. Đặc biệt, bộ giao thông vận tải đã hoàn thành một công trình nghiên cứu cấp nhà nước về logistics. Đây là những tín hiệu tốt báo hiệu sự phát triển mạnh mẽ của logistics trong tương lai không xa. Logistics tại Việt Nam sẽ có những bước phát triển rất nhanh với nhiều sự thay đổi. Nhìn chung sự phát triển đó sẽ bao gồm những nội dung như:
Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải.
Đổi mới và hiện đại hóa các nghiệp vụ kỹ thuật liên quan đến quá trình lưu chuyển của hàng hóa.
Hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống quản lý logistics hiện đại và hiệu quả.
Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội về lgistics.
Phát triển dịch vụ logistics hướng tới mô hình logistics điện tử dựa trên sự phát triển của công nghệ thông tin, đưa logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn trong quá trình đất nước hội nhập với xu thế kinh tế toàn cầu.
Thực tiễn phát triển của logistics của các nước trên thế giới cho thấy logistics chỉ có thể được triển khai trên nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc và ngành giao nhận vận tải đạt đến độ phát triển nhất định vì vậy muốn logistics có thể được ứng dụng hiệu quả tại Việt Nam, đặc biệt là đối với nhiệm vụ
phát triển cơ sở hạ tầng logistics, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Chính phủ, các bộ ngành và các doanh nghiệp. Chính phủ đóng vai trò là đơn vị chủ đạo trong việc phát triển cơ sở hạ tầng bởi đây là nhiệm vụ không thể giao cho riêng lẻ một bộ phận, tổ chức nào.. Bộ Giao thông Vận tải đã đệ trình Chính phủ quy hoạch phát triển hệ thống đường bộ, đường sắt, đường cao tốc và quy hoạch giao thông vận tải tại hai độ thị lớn nhất nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Và Chính phủ cũng đã có những kế hoạch cụ thể về nguồn vốn đầu tư phát triển cho ngành giao thông vận tải trong giai đoạn 2002 – 2020.
1.3 Tiến trình thực hiện
1.3.1 Định hướng phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện phát triển logistics
a/ Về vận tải biển, quy hoạch đội tàu biển và hệ thống cảng biển bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Mở rộng và hiện đại hóa đội tàu biển của Việt Nam đến năm 2010 sẽ có trọng tải gần 2 triệu DWT; bổ sung các tàu phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; cơ cấu đội tàu đảm bảo tính chuyên môn hóa cao.
Tàu container sẽ được bổ sung 16 – 18 tàu loại 800 – 1200 TEUs đảm bảo khả năng vận chuyển 1 triệu TEUs/ năm; hoạt động vận chuyển feeder trên các tuyến Đông Nam Á và Viễn Đông sẽ tiếp tục sau đó sẽ mở rộng đi các tuyến Châu Âu và Châu Mỹ.
Bổ sung các loại tàu chở dầu thô, sức chở gần 60.000 – 90.000 DWT có tổng trọng tải 770.000 DWT và các tàu chở sản phẩm cỡ 15.000 – 20.000 DWT đồng thời đầu tư các tàu chở gas cỡ khoảng 2.000 m³.
Tàu đa năng sẽ được bổ sung các tàu có trọng tải 10.000 – 40.000 DWT có tổng trọng tải 800.000 DWT.
Tàu chở khách, sẽ tiếp tục đầu tư các loại tàu du lịch chạy ven biển.
Cải tạo, phát triển, hiện đại hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân bốc xếp phù hợp với công nhân bốc xép mới tại các cảng hiện hữu để phát huy các điều kiện sẵn có nhằm đầu tư ít và khai thác có hiệu quả.
Tập trung xây dựng một số cảng nước sâu tại các vùng kinh tế trọng điểm cho cỡ tàu hơn 30.000 DWT; chú trọng cảng container, cảng chuyên dụng cho hàng rời, hàng lỏng.
Xây dựng có hiệu quả, có trọng điểm các cảng vệ tinh, cảng địa phương có qui mô vừa và nhỏ phục vụ kinh tế địa phương.
Theo Quyết định số 202/ 1999 – QĐ - TTg ngày 12/10/1999
b/ Về hàng không:
Các cảng hàng không quốc tế của Việt Nam có năng lực thấp, rất khiêm tốn so với các sân bay trên thế giới và khu vực và đã có hiện tượng quá tải, đặc biệt là hai sân bay Tân Sơn Nhất và Nội Bài. Để có thể trở thành một trung tâm lớn của khu vực về vận tải hàng không có hướng phát triển về hạ tầng cơ sở các sân bay quốc tế và nâng cấp hệ thống sân bay lẻ. Phương hướng chính là tập trung đầu tư xây dựng tăng năng lực của các sân bay quốc tế Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất và cải tạo nâng cấp các sân bay địa phương. Dự kiến trong những năm tới Việt Nam cần khoảng 4 sân bay quốc tế, trong đó 1 được xây dựng ở phía Bắc ( Hà Tây), một ở TP HCM (sân bay Long Thành Bắc) để đáp ứng được lượng khách và hàng hóa ngày càng tăng. Đối với các sân bay nội địa, ngành hàng không đã có kế hoạch đầu tư, nâng cấp cải tạo và đưa vào khai thác thương mại thêm một số cảng hàng không nội địa như Quần Long, Điện Biện, Vũng Tàu… Nhu cầu về số lượng sân bay của Việt Nam từ nay đến năm 2010 là 44 sân bay, trong đó cần 4 sân bay quốc tế, 24 sân bay nội địa và 16 sân bay dịch vụ địa phương. Nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển hệ thống sân bay tổng cộng tới 3650 triệu USD, trong đó đầu tư cho các sân bay quốc tế là 1950 triệu, cảng hàng không nội địalà 500 triệu, và sân bay dịch vụ địa phương là 200 triệu. Bên cạnh việc đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng sân bay, các dịch vụ thương mại mặt đất tại các sân bay cũng sẽ được phát triển, hoàn thiện, phấn đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế, dần xóa bỏ độc quyền kinh doanh tại các sân bay, tạo sức cạnh tranh về chất lượng phục vụ tại các sân bay của Việt Nam, góp phần thu hút khách sử dụng dịch vụ hàng không. [6].
c/ Về đường sắt
Mục tiêu đến năm 2020 xây dựng và phát triển mạng lưới giao thông đường sắt hợp lý và thống nhất trong cả nước, có quy mô phù hợp với từng lãnh thổ, hình thành những trung tâm kết nối cơ sở hạ tầng, dịch vụ vận tải đường sắt, tạo điều kiện khai thác tiềm năng hiện có và phát triển năng lực của ngành giao thông vận tải đường sắt; từng bước xây dựng ngành giao thông vận tải đường sắt Việt Nam phát triển đồng bộ và hiện đại cả về các tuyến đường, nhà ga, kho, bãi hàng, thông tin, tín hiệu; cơ sở bảo trì, sản xuất phụ kiện, vật liệu phục vụ cơ sơ hạ tầng và hệ thống phương tiện vận tải, trang thiết bị xếp dỡ, hệ thống cơ khí đóng mới, lắp ráp, sửa chữa phương tiện vận tải nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách với chất lượng ngày càng cao, giá thành hợp lý, tiện nghi, an toàn, nhanh chóng và hiệu quả. Phát triển phương tiện vận tải đường sắt theo hướng đa dạng với cơ cấu hợp lý, đổi mới sức kéo và sức chở theo hướng hiện đại, giảm chi phí, hạ giá thành, chú trọng phát triển các đoàn tàu tốc độ cao, tàu tự hành, tàu chở container… áp dụng công nghệ tiên tiến trong vận tải và đóng mới phương tiện nhằm tăng tốc độ chạy tàu để đến năm 2020. tốc độ tàu hàng đạt 80 km/giờ trở lên và tốc độ tàu khách đạt 120 km/giờ trở lên.
d/ Về đường sông
Đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành giao thông vận tải đường sông được phát triển trên cơ sở phát huy nội lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm bằng mọi nguồn vốn nhằm phát triên bèn vững, tăng cường