Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hoạt động Logistics tại các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam - 13


Phân luồng hoạt động cho các tàu sông, phát triển vận chuyển hàng container bằng xà lan.

c/ Nâng cấp mở rộng các tuyến đường sắt: Nhà nước cần hỗ trợ ngành nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, mở rộng đường nhánh đến các khu công nghiệp, khu chế suất, các cảng biển lớn. Tăng cường đầu máy, toa xe, thiết bị chuyên dụng để tăng năng lực vận chuyển. Phát triển các tuyến chuyên dụng chở container, áp dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ giao nhận hàng hoá.

d/ Xây dựng các tuyến đường cao tốc đảm bảo trọng tải cho ô tô chuyên dụng lưu thông. Tăng cường đầu tư phát triển đội xe chuyên dụng chở container, xây dựng các trạm container đường bộ để có nơi giao nhận hàng hoá và bảo quản container. Hợp lý hoá các chính sách và quy hoạch đường bộ để tạo điều kiện cho các phương tiện vận tải đường bộ có thể giao nhận hàng tại các điểm trong thành phố, cung cấp dịch vụ logistics theo đúng nghĩa từ cửa tới cửa.

e/ Xây dựng đồng bộ hệ thống cảng hàng không: vận tải hàng không là một mắt xích không thể thiếu được trong vận tải chở suốt, các phương tiện vận tải khó mà thay thế được trong việc vận chuyển hàng siêu nhẹ, có giá trị cao và đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh chóng. Để đáp ứng nhu cầu chuyên chở, phải đầu tư xây dựng cảng và phương tiện vận chuyển, hệ thống kho hàng. Về phương tiện vận chuyển cần mua sắm máy bay chở hàng chuyên dụng. Thời gian qua Việt Nam chủ yếu vận tải hành khách chứ chưa chú trọng phát triển vận tải hàng hóa. Ngoài đầu tư nâng cao năng lực vận tải, cần thiết lập và mở rộng mạng đường bay tới các điểm có nhu cầu vận tải hàng hóa đi và đến.

2.2. Đầu tư và khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin

Hạ tầng công nghệ thông tin là một trong các yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của logistics. Vì vậy để thực thi thành công


chiến lược phát triển logistics, Nhà nước cần phải xây dựng chiến lược phát triển công nghệ thông tinnhằm phục vụ nền kinh tế xã hội nói chung và logistics nói riêng. Cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ cho sự phát triển logistics bao gồm: mạng lưới thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, trao đổi dữ liệu điện tử, hệ thống Internet… Khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin trong logistics sao cho triển khai hiệu quả chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử EDI trên một mặt phẳng chung và chuẩn hóa cho phù hợp với các nước trên thế giới. Việc này đòi hỏi Chính phủ phải thiết lập đựơc sự hợp tác liên Bộ, liên ngành để xây dựng được một mặt bằng sử dụng EDI. Cụ thể, thiết lập hệ thống EDI giữa các cảng biển Việt Nam với các chủ tàu, các cơ quan hải quan, các cảng chính của Việt Nam với cảng chính trong khu vực, và các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải giao nhận. Để phát triển hệ thống Internet, Chính phủ cần có kế hoạch đẩy mạnh, hiện đại hóa hệ thống truyền thống, nâng cao công suất băng thông, gia tăng tốc độ đường truyền để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp tham gia vào dây chuyền logistics triển khai hệ thống thông tin kiểm soát toàn bộ quá trình vận động của hàng hóa.

3/ Lập các trung tâm logistics quốc gia

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Xu hướng chung trong việc phát triển các ngành hàng hiện nay để đáp ứng nhu cầu lớn về số lượng cung ứng và tính chuyên môn cao là thành lập các khu vực hoạt động chuyên biệt. Đó là khu công nghiệp, khu chế xuất dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, khu công nghệ cao dàng cho phát triển công nghệ thông tin, các đặc khu kinh tế… Trong phát triển logistics, việc thành lập các trung tâm logistics cũng là một xu hướng phổ biến mà các nước có ngành logistics phát triển đã áp dụng rất thành công. Singapore, Thượng Hải, đặc khu Thâm Quyến, Đài Loan… là những trung tâm logistics nổi tiếng không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới. Các trung tâm logistics không chỉ diễn ra phần lớn các hoạt động trong chuỗi logistics mà còn giúp việc tổ chức quản lý


Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hoạt động Logistics tại các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam - 13

logistics đạt hiệu quả cao và có thể giảm thiểu việc đi lại không cần thiết của xe tải và khó khăn của giao thông đô thị. Trong thời gian tới, để xây dựng thành công các trung tâm logistics góp phần thúc đẩy sự phát triển của logistics tại Việt Nam, về phía Nhà nước cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:

- Định hướng, kế hoạch cụ thể về xây dựng các trung tâm logistics: ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn để thành lập các trung tâm logistics trong đó bao gồm các nội dung cơ bản như điều kiện đầu tư xây dựng, nguồn vốn, các chế độ ưu đãi về thuế quan ( miễn thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng…); cho phép và khuyến khích các công ty nước ngoài có đủ khả năng tài chính vào đầu tư xây dựng.

- Nghiên cứu mô hình phát triển trung tâm logistics của các nước và căn cứ vào điều kiện khách quan cụ thể của nước mình để thiết kế mô hình phù hợp.

- Chính phủ phê duyệt các đề án thành lập khu logistics của các Ban quản lý KCX – KCN. Ban quản lý KCX – KCN thành phố Hồ Chí Minh HEPZA đã tích cực xây dựng đề án và được Chính phủ phê duyệt cấp phép cho KCX Tân Thuận mở rộng công năng thành lập khu logistics.

- Cần xây dựng một mạng lưới phân phối giữa chủ hàng, công ty giao nhận, hệ thống chi nhánh, nơi phân phối cuối cùng; đồng thời với xây dựng các trung tâm phân phối là thiết lập các hệ thống kho gom hàng.

4/ Hệ thống hóa pháp luật và chính sách điều tiết hoạt động logistics

Hiện tại, Luật thương mại 2005 của Việt Nam đã chính thức công nhận dịch vụ logistics như một hành vi thương mại và đưa ra các điều chỉnh về các vấn đề như quyền hạn, trách nhiệm của các bên, giới hạn trách nhiệm, trường hợp miễn trách của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics… Nhưng rất nhiều vấn đề liên quan khác như hợp đồng dịch vụ logistics, giải quyết tranh chấp giữa các bên… thì vẫn chưa có quy định cụ thể. Một số vấn đề như thuế, hải quan, bảo hiểm, vận tải đa phương thức… cũng chưa có một khung pháp lý ổn định. Vì vậy, vấn đề đặt ra là:


- Nhà nước cần nhanh chóng nghiên cứu xem xét xây dựng hành lang pháp lý đảm bảo tính nhất quán, thông tháng và hợp lý trong các văn bản quy định có liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho một môi trường logistics minh bạch; trong quan hệ kinh tế quốc tế, nếu cần có thể chỉnh sửa luật trong nước để điều tiết quan hệ dịch vụ logistics theo thông lệ quốc tế

- Thực hiện các văn bản dưới luật nhằm hiện thức hóa Luật thương mại trong đó có quy định về dịch vụ logistics

- Cần thay đổi và tiêu chuẩn hóa các quy định về cấp phép, điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn, quy định về vận tải đa phương thức, thống nhất và tiêu chuẩn hóa tên hàng và mã hàng hóa. Trong đó cần thiết phải tiêu chuẩn hóa các doanh nghiệp logistics.

- Ban hành quy định về cấp phép NVOCC, các quy định hải quan về đại lý khai quan, chứng từ xuất nhập khẩu phải phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực

- Sửa đổi bất hợp lý trong phân cấp quản lý và thủ tục giấy phép của các Bộ, các ngành khác nhau để tạo điều kiện cho dòng lưu chuyển hàng hóa được thông suốt.

5/ Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động logistics

Để phát triển nhân lực phục vụ logistics tại các công ty giao nhận vận tải Việt Nam, cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước như xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn, trang bị kiến thức cho các sinh viên sẽ ra làm logistics; với đội ngũ nhân công lao động trực tiếp, thường xuyên nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho họ và xây dựng chương trình đào tạo phù hợp các trường trung học chuyên nghiệp. Những giải pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ tác nghiệp dịch vụ logistics như sau:

5.1. Đào tạo ngắn hạn


Cần tổ chức thêm các lớp bồi dưỡng, mỗi năm từ 2 đến 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ logistics trong nước và nước ngoài.

- Đối tượng tham gia khóa học này là những người có khả năng truyền đạt lại cho nhiều người như giảng viên đại học, đại diện cơ quan, ban ngành, các doanh, các đại lý, các chủ hàng…

- Nội dung đào tạo cần tập trung vào nội dung logistics, tổ chức vận hành chuỗi logistics và quản lý sự vận động của chuỗi logistics, và pháp luật liên quan đến hoạt động logistics

- Hình thức và thời gian:

+ Trong nước tổ chức dạng hội thảo ( seminar) từ 2 – 3 ngày hoặc khóa học ngắn hạn từ 5 – 6 ngày. Nước ngoài: thời gian học từ một đến 6 tháng

+ Nguồn kinh phí: được hỗ trợ từ một số tổ chức quốc tế và sự hỗ trợ của cơ quan cử người đi học

5.2. Đào tạo dài hạn

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo nghiên cứu đưa vấn đề logistics vào giảng dạy tại các trường đại học hoặc thành lập các trường đào tạo nghề logistics. Bên cạnh đó, cần phải biết kết hợp những lý thuyết đã dạy tại trường với việc tổ chức cho sinh viên làm quen với thực tế.

6/ Thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp

6.1. Khuyến khích liên kết giữa các doanh nghiệp

Chính phủ cần có những chính sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với nhau để có được những doanh nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cung cấp dịch vụ logistics hoàn chỉnh, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, Chính phủ khuyến khích các đơn vị trong ngành xem xét khả năng sáp nhập và thành lập các đơn vị cung ứng


dịch vụ logistics theo nhóm 3 – 4 đơn vị; Nhà nước cần đứng ra thành lập các tổng công ty mạnh hoạt động trên lĩnh vực logistics toàn cầu, xây dựng định hướng – chiến lược phát triển logistics ở các tổng công ty, công ty trong ngành vận tải có tiềm năng kinh tế mạnh để làm đầu tàu thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ logistics trong các doanh nghiệp giao nhận vận tải khác.

6.2. Tăng cường vai trò của các hiệp hội

Các hiệp hội có liên quan phải năng động hơn nữa, phát huy tối đa vai trò trong sự phát triển dịch vụ logistics của các doanh nghiệp thành viên. Trong thời gian tới, để phát huy vai trò của mình trong việc phát triển logistics, các hiệp hội ngành nghề liên quan cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Thiết lập điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn cho hiệp hội, trên cơ sở đó đảm bảo chất lượng của người kinh doanh dịch vụ logistics.

+ Quản lý và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các hội viên

+ Tư vấn đào tạo và trực tiếp tổ chức các khóa đào tạo về nghiệp vụ cho các hội viên bằng mọi nguồn tài trợ huy động được.

+ Cung cấp thông tin, điều phối và hướng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trường nước ngoài

+ Năng động và tích cực trong vai trò gắn kết và xử lý việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên

+ Tư vấn cho Chính phủ và cơ quan Nhà nước về khung pháp lý, chính sách và biện pháp thực hiện phát triển hoạt động logistics tại Việt Nam

Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam cần đổi tên thành Hiệp hội logistics Việt Nam cho phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và có như vậy mới có thể trợ giúp tích cực cho hội viên trong phát triển dịch vụ logistics.


KẾT LUẬN

Phát triển hoạt động logistics nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo tính chủ động linh hoạt, đảm bảo tiến độ, thời gian lưu thông hàng hóa, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong kinh doanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng… là vấn đề được đặt ra hết sức nghiêm túc và cần thiết.

Với mục tiêu là đưa ra định hướng và một số giải pháp phát triển hoạt động logistics tại các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam, khóa luận đã đề cập được những nội dung sau:

Thứ nhất: hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan tới logistics và hoạt động logistics tại các DNGNVT. Tổng kết vai trò của logistics, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động logistics tại các DN cũng như kinh nghiệm hoạt động logistics hiệu quả của một số nước trong khu vực. Từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Thứ hai: đề cập tới các thành tựu đã đạt được của toàn ngành, của một số DN tiêu biểu và những bất cập còn tồn tại, em có một số nhận xét như sau:

Phát triển hoạt động logistics đi liền với việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Trong khi đó ở Việt Nam hệ thống giao thông còn lạc hậu, yếu kém, phát triển chưa đồng bộ, gây cản trở cho việc phát triển vận tải đa phương thức.

Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và thương mại điện tử mặc dù đã được áp dụng và đang dần được nâng cao nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Điều này một phần là do chưa có nhiều DN cùng triển khai áp dụng hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử - EDI một cách đồng bộ.

Pháp luật diều chỉnh hoạt động logistics vẫn còn nhiều bất cập vì tại thời điểm này chúng ta vẫn chưa có nghị định quy định chi tiết về điều kiện


kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ này.

Các DN kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là các DN sinh sau, đẻ muộn so với nhiều công ty nước ngoài nên quy mô còn hết sức nhỏ bé, năng lực tài chính hạn hẹp còn hoạt động thì tản mạn, manh mún.

Điểm mới của khóa luận là đã mạnh dạn đưa ra định hướng cũng như phương hướng hoạt động cho các DNGNVT Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Đây là một mục tiêu và hướng phấn đấu mà không phải doanh nghiệp nào cũng muốn tiết lộ do vậy cũng là một thách thức trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận này.

Thứ ba: em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển hoạt động logistics tại các DNGNVT Việt Nam.

Do thời gian eo hẹp không cho phép nghiên cứu một cách thấu đáo cộng với kiến thức nông cạn đặc biệt là trong lĩnh vực mới và phức tạp như phát triển dịch vụ logistics, nên chắc chắn khóa luận không thể tránh khỏi sai sót, chưa hoàn thiện. Em mong muốn sẽ nhận được sự thông cảm, ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô, bạn bè và coi đây là hướng đi cần phải tiếp tục hoàn thiện trong tương lai.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/09/2022