Nhận Xét Chung Về Các Doanh Nghiệp Giao Nhận Vận Tải Và Logistics Miền Bắc Việt Nam

luôn đảm bảo thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng với chi phí tối thiểu trong dây chuyền cung ứng dịch vụ theo chiều thuận và chiều ngược.

Với cơ sở vật chất hoàn chỉnh bao gồm: đội tàu biển với hơn 1300 TEU trong đó có hơn 50 ISO Tank và bồn chứa chất lỏng, khí hóa lỏng, các trung tâm phân phối với trên 30.000m2 kho bãi, phương tiện bốc xếp cơ giới và lực lượng vận tải đường bộ, cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, VINAFCO có đủ khả năng đáp ứng tất cả các yêu cầu khác về vận tải, giao nhận, phân phối và thương mại của các khách hàng trong và ngoài nước.

1.5.3. Các sản phẩm của doanh nghiệp

 Cho thuê kho, bốc xếp, vận tải và phân phối hàng hoá từ kho đến các đại lý , khách hàng: VINAFCO hiện đang sở hữu hệ thống kho bãi chất lượng cao với tổng diện tích mặt bằng 40.000m² vị trí thuận lợi cho việc lưu giữ và phân phối hàng hoá vào khu vực Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, các kho này đều nằm ở các đường vành đai Hà Nội và khu công nghiệp Tiên Sơn, Bắc Ninh. Hiện nay hệ thống các kho này đang là kho trung chuyển trong các kênh phân phối của nhiều hãng sản xuất lớn trong nước và trên thế giới với các mặt hàng như: sữa, sơn, dầu nhờn, sôđa, thiết bị viễn thông , hàng xe máy,…

Thực hiện sắp xếp hang hoá theo sơ đồ: Tổ chức nghiên cứu và sắp xếp kho hàng theo hệ phân định hàng luân chuyển nhanh, hàng luân chuyển chậm, phân định hàng hoá theo các nhóm sản phẩm (Product groups), hàng quảng cáo - khuyến mại, mã hoá các vị trí kho hàng theo phương pháp hiện đại.

Tư vấn thiết kế giá kệ và lắp đặt hệ thống chiếu sáng kho hàng: Tuỳ theo nhu cầu và sức chứa của kho hàng, VINAFCO Logistics cho tiến hành lắp đặt và vận hành hệ thống giá kệ phù hợp với từng đặc điểm kho hàng, thiết kế lắp đặt hệ thống chiếu sáng sao cho phù hợp

với hệ thống giá kệ trong kho hàng, giảm thiểu những tác hại do sức nóng của đèn hoặc các tia bức xạ lên sản phẩm.

Quản lý kho hàng bằng phần mềm: VINAFCO Logistics đang thực hiện quan lý kho hàng bằng phần mềm theo mô hình quản lý tiến tiến (Warehouse management system - WMS), giúp khách hàng các thông tin liên quan đến hoạt động của hàng hoá, tính toán tỉ lệ dự trữ, tối ưu hoá công cụ quản lý kho thông qua hệ thống báo cáo được cập nhật thường xuyên và đầy đủ. VINAFCO Logistics thực hiện quản lý xuất nhập hàng hoá bằng phần mềm quản lý kho chuyên nghiệp, lập các báo cáo xuất nhập tồn về hàng hoá theo yêu cầu quản lý của khách hàng.

Dịch vụ phân phối hàng hóa: Là một dịch vụ trong chuỗi dịch vụ Logistics, với năng lực vận chuyển gồm đội xe của VINAFCO Logistics với hàng trăm xe tải từ 0,5 tấn đến 5 tấn, đội ngũ nhân viên điều hành vận tải chuyên nghiệp và năng động, hiện nay công ty đang thực hiện vận chuyển, phân phối hàng hóa hàng nghìn tấn từ các trung tâm tiếp vận, các nhà sản xuất đến tận tay người tiêu dùng trên khắp mọi miền đất nước và thu gom hàng hoá theo chiều ngược lại đảm bảo tiến độ, chất lượng và thông tin thông suốt trong quá trình phân phối. Đặc biệt công ty đã áp dụng và trở thành công ty đầu tiên tại Việt Nam thực hiện mô hình phân phối hàng hóa 3PL (Third Party Logistics) phân phối hàng hóa trọn gói từ khâu bảo quan, lưu giữ hàng hóa, đến khâu vận chuyển, giao nhận tận nơi khách hàng yêu cầu bằng các hình thức vận chuyển như ôtô, vận chuyển bằng xe máy được khách hàng sơn ICI đánh giá cao. Ngoài ra công ty đang hướng đến việc cung cấp dịch vụ vận chuyển, giao nhận phân phối hàng hóa theo thời gian mà khách hàng yêu cầu.

1.5.4. Kết quả hoạt động

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Biểu đồ 4: Kết quả kinh doanh năm 2007 của Vinafco


Nghiên cứu thị trường logistics miền Bắc Việt Nam - 11


5.13, 17%


Doanh thu bán hàng

Doanh thu cung cấp dịch vụ


24.97, 83%


(Nguồn: www.vinafco.com.vnBáo cáo Tài chính năm 2007)

Để có thể hình thành nên một bức tranh toàn cảnh của thị trường Logistics Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng không thể không kể đến sự tham gia của các doanh nghiệp Logistics và Vận tải giao nhận nước ngoài đã và đang hoạt động kinh doanh tại miền Bắc Việt Nam.

Hiện nay các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động mạnh tại miền Bắc Việt Nam bao gồm: Maersk Logistics, Mitsui O.S.K Lines, DHL, TNT,…

1.6. Maersk Logistics Vietnam

Được thành lập vào năm 1904, đến nay Maersk Lines đã phát triển thành một tập đoàn hoạt động trên toàn cầu, hiện diện tai hơn 130 quốc gia với hơn 300 trụ sở và mang lại việc làm cho khoảng 110.000 người. Maersk sở hữu hơn 500 tàu có trọng tải 1.700.000 TEU. Maersk Logistics là doanh nghiệp Logistics đã hoạt động tại Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng trong một thời gian khá dài (từ năm 1991) với chất lượng dịch vụ hoàn hảo và uy tín lớn, có trụ sở tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh và Quy Nhơn.

Biểu đồ 5: Doanh thu của Maersk trong 5 năm từ 2003 – 2007


300

278.87

264.75

250

208.72

200

157.88 159.54

Tỷ Krone 150

doanh thu

100


50


0

2003

2004 2005 2006

Các năm

2007


(Nguồn: about.maersk.com Fact Sheet)

Maersk Logistics Vietnam chính thức được thành lập vào năm 1995.

Maersk cung ứng hơn 20 dịch vụ,như: Vận tải hàng không; Vận tải biển; Vận tải đường bộ; Vận tải đa phương thức; Xuất nhập khẩu; Cho thuê kho bãi; Phát triển chuối cung ứng; Môi giới hải quan;…

Tại miền Bắc, hệ thống kho bãi đặt gần Đường 5 (trong đó có kho CFS chất lượng cao) với tổng diện tích 5470 km2 được bảo đảm an ninh 24/24 giờ. Maersk có năng lực vận tải nội địa lớn với đội xe 150 đầu xe, 160 lái xe và vận chuyển 18.000 Container hàng năm. (Nguồn: Maersk Logistics Vietnam Overview Jul 2008)

Maersk có một hệ thống quản lý tối ưu với trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Do đó, họ có khả năng thu hút khách hàng và tạo cho khách hàng sự tin tưởng tuyệt đối khi sử dụng dịch vụ của mình.

1.7. DHL

Được thành lập vào năm 1969 tại San Francisco, trải qua gần 40 năm phát triển, DHL ngày nay đa trở thành một công ty đi đầu trong ngành công nghiệp Logistics và chuyển phát nhanh thế giới. Với mạng lưới hoạt động trên hơn 220 quốc gia và hơn 300.000 nhân viên, DHL cung cấp các dịch vụ từ chuyển phát nhanh đến vận tải hàng không và đường biển, vận tải nội địa, giải pháp Logistics, thư tín quốc tế,…

DHL là công ty chuyển phát nhanh qua đường hàng không đầu tiên của nước ngoài xuất hiện tại Việt Nam (từ năm 1988). Công ty hiện có 300 nhân viên và hai cơ sở chính tại Việt Nam, hoạt động 365 ngày liên tục. Là người tiên phong, nên dịch vụ của DHL rất đa dạng và sản phẩm luôn luôn được nghiên cứu sao cho phù hợp với khách hàng Việt Nam, mà chất lượng vẫn giữ nguyên so với dịch vụ của DHL tại các nước khác trên toàn thế giới.

Hoạt động của DHL hoàn toàn được tự động hoá bằng các phương tiện máy móc chuyên nghiệp (do công ty DHL là công ty vận tải toàn cầu) các máy dọc mã vạch hàng hoá được mã hoá toàn cầu, được trang bị cho tong nhân viên đi giao nhận hàng. Thông tin từ máy này được chuyển trực tiếp về trung tâm và toàn bộ dự liệu được lưu lại và sử lý tại đây. Đây cũng chính là ưu điểm vượt trội trong công tác quản lý của DHL, khách hàng ở bất cứ nơi nào trên thế giới có Services của DHL khi làm sử dụng dịch vụ của công ty này đều có thể tìm hiểu được hiện trạng của hàng gửi theo số vận đơn của mình thông qua mạng lưới Internet. Trong khi đó các công ty Logistic trong nước không có dịch vụ này, khách hàng khi muốn kiểm tra tình trạng hàng hoá của mình đều phải kiểm tra trực tiếp bằng cách liên lạc trực tiếp đến trụ sở công ty mà không được sử dụng dịch vụ tra soát thông minh của các công ty Logistic có tên tuổi trên thế giới. Đây cũng chính là một trong những điển cần đổi mới và ứng dụng trong tương lai gần nhất cho các công ty Logistics Việt Nam.

Hiện tại, DHL ở Việt Nam chiếm khoảng 2% đến 25% thị phần của khối công ty Logistics nước ngoài tại Việt Nam. Khách hàng chủ yếu của DLH là những khách hàng nước ngoài ký hợp đồng từ nước ngoài (out door), họ chấp nhận giá cước vận chuyển cao hơn khoảng 20% đến 25% so với các công ty Logistics trong nước để nhận được sự đảm bảo của DHL về mặt an toàn của hàng hoá và nhất là dịch vụ chuyển phát

đúng thời hạn của công ty này, tránh cho khách hàng những rủi ro về mặt thời gian đối với nhưng lô hàng mà khách hàng đã ký thoả thuận với bên thuê dịch vụ trách những đáng tiếc từ việc chậm trễ thời gian.

Biểu đồ 6: Doanh thu của DHL trong năm 2006 và 2007


30

25.74

25

24.41

20

15.29 15.48

Tỷ EUR 15

13.46

13.87

10.43

10

9.59

5

2.2 2.36

0

Thư tín Chuyển Logistics Dịch vụ tài Dịch vụ

phát nhanh

chính

khác

Các lĩnh vực hoạt động

2006

2007


(Nguồn: www.dhl.com)

2. Nhận xét chung về các doanh nghiệp giao nhận vận tải và Logistics miền Bắc Việt Nam

Căn cứ vào thông tin về tình hình hoạt động của một số doanh nghiệp điển hình tại miền Bắc Việt Nam cũng như so sánh với doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại thị trường miền Bắc, có thể đưa ra một vài nét khái quát như sau:

2.1. Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh mún

Nguồn lợi hàng tỷ đô này lại đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có một phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị trường dịch vụ Logistics. Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong Logistics là vận tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển.

Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Logistics. Trong đó, VIFFAS có 97 hội viên (77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Logistics tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này.

Sự “lép vế” của các doanh nghiệp trong nước có thể thấy được qua thị phần của hai nhóm doanh nghiệp như sau:

Thị phần các doanh nghiệp (tính theo USD)


Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nước ngoài



41%


59%

2.2. Hạ tầng cơ sở Logistics còn nghèo nàn, quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý

Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình Container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược trang bị các thiết bị xếp dỡ Container hiện đại, hơn nữa còn thiếu kinh nghiệm trong việc điều hành và xếp dỡ Container.

Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường không dược thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 11/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí