Thi Đua Yêu Nước Diễn Ra Trên Phạm Vi Rộng Với Nhiều Nội Dung Và Hình Thức Phong Phú Nhưng Tập Trung Giải Quyết Hai Nhiệm Vụ Là Sản Xuất-Xây Dựng


Với tinh thần “người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua”, TĐYN đã không còn là việc riêng của cá nhân, đơn vị hay địa phương cụ thể nào. PTTĐ tổ, đội lao động tiên tiến, tổ, đội lao động XHCN với sự xuất hiện của hàng chục vạn lao động tiên tiến, hàng vạn chiến sĩ thi đua và nhiều anh hùng lao động, hàng vạn tổ đội lao động tiên tiến, hàng nghìn tổ, đội lao động XHCN phản ánh rõ bước phát phát triển cao về mặt tổ chức và tư tưởng của PTTĐYN. Ngay từ năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cho đến khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, phát huy tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, PTTĐ tập thể ngày càng có những bước tiến mới, tích cực và vững chắc, tính chất thi đua tập thể đã tạo nên đặc trưng cũng như sức mạnh cho các PTTĐYN. Được phát động rộng rãi trong tất cả nhà máy, xí nghiệp, HTX, trường học, bệnh viện, TĐYN không phải là việc riêng của cá nhân tiên tiến hay tổ tiên tiến …Ai cũng được tạo điều kiện thuận lợi nhất để được thi đua và qua thi đua để khẳng định mình. Sự phát triển của hình thức thi đua tập thể đồng thời với đó là sự phát triển của trình độ giác ngộ XHCN, tinh thần làm chủ, tinh thần hợp tác XHCN. PTTĐYN giai đoạn này đã phát huy tác dụng của những cá nhân, tập thể tiên tiến trong việc dìu dắt, nâng đỡ người chậm tiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp và khả năng sáng tạo vô tận để vượt mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu thi đua đề ra. PTTĐYN ngày càng thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi, có sức mạnh lôi kéo sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân ở mọi ngành, mọi giới. Mặc dù cá nhân, đơn vị đạt thành tích xuất sắc có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển chung của các phong trào, nhưng sức mạnh giúp PTTĐYN thời kỳ gặt hái những thành tựu không ngừng tăng cao là sức mạnh của quần chúng, được sự tổ chức, sự dẫn dắt của lực lượng nòng cốt là các đoàn thể chính trị. Điều kiện mang lại thắng lợi to lớn trong các PTTĐ đó chính là mối quan hệ cộng đồng trách nhiệm của tập thể và tinh thần phụ trách cao của mỗi người.

Từ năm 1965, trong điều kiện miền Bắc bước vào thời chiến, khi mà phần lớn nhà máy, cơ quan, trường học, bệnh viện… ở trong tình trạng sơ tán, phân tán thì người chỉ huy tối cao của các tổ đội sản xuất là đường lối của Đảng, biểu hiện trong công tác Đảng, qua vai trò của đảng viên, người phụ trách chuyên môn và người phụ trách công tác đoàn thể. Hoạt động thanh tra, kiểm tra gần như nhường bước cho người giám sát nghiêm khắc nhất là lương tâm mỗi người, thể hiện trong tinh thần tự quản ở tổ sản xuất, tổ chiến đấu. Tinh thần, ý thức làm chủ tập thể quyết định ý chí chiến đấu và hoài bão cống hiến của mỗi cá nhân, đơn vị.


PTTĐ tập thể dưới hình thức tổ và đội lao động XHCN ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, trong PTTĐ chống Mỹ, cứu nước, PTTĐ tập thể trở thành hình thức thi đua chủ yếu. Hình thức thi đua này đã thu hút hàng nghìn tổ, đội đăng ký thi đua trở thành tổ, đội lao động XHCN. Những tổ đội này trên thực tế đã phát huy vai trò rất mạnh mẽ và là chỗ dựa cho các cấp lãnh đạo. Tổ và đội trở thành những đơn vị trực tiếp sản xuất, công tác và chiến đấu. Phấn đấu trở thành tổ, đội lao động XHCN trở thành hình thức thi đua mang lại cho PTTĐYN sức mạnh lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội, là minh chứng thuyết phục cho tính hiệu quả của con đường làm ăn tập thể.

Từ các Đại hội tổ và đội lao động XHCN đến các đại hội, hội nghị tổng kết các PTTĐ đã xuất hiện đến hàng nghìn tổ và đội sản xuất được Chính phủ công nhận là tổ và đội lao động XHCN. Các danh hiệu thi đua, đặc biệt danh hiệu tổ, đội lao động XHCN là dành cho những người ở trong tập thể lao động, luôn phát huy tinh thần tương trợ, thương yêu đồng đội, có ý thức tập thể, dám nghĩ, dám làm trên tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn và chiến tranh ác liệt, hình ảnh người cán bộ, đảng viên cộng sản, những anh hùng chiến sĩ thi đua là niềm tin, nguồn sức mạnh cổ vũ, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Ở những nơi gay go, ác liệt của chiến tranh cũng như nơi đầu sóng ngọn gió của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ ấy luôn có mặt ở vị trí hàng đầu, là tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng, sự tận tụy hy sinh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Họ xuất thân và trưởng thành từ trong tập thể, họ khiêm tốn và gần gũi quần chúng không tự kiêu, tự mãn và luôn ý thức rõ thành tích là thành tích tập thể, anh hùng là anh hùng tập thể, vinh dự đó là vinh dự chung của dân tộc chứ không phải là vinh dự riêng của cá nhân mình. Hàng vạn cán bộ, đảng viên cộng sản, anh hùng chiến sĩ thi đua xung phong ra tiền tuyến, không toan tính thiệt hơn, kể cả dám chấp nhận hy sinh tính mạng. Ý thức vì nước, vì dân, vì đồng chí, đồng bào trở thành lý tưởng cao cả, và là lẽ sống hàng ngày…chủ nghĩa cá nhân trở nên lạc lõng và gần như không có đất để tồn tại. những danh hiệu được khen thưởng, trao tặng tuy mang giá trị vật chất không lớn nhưng lại chứa đựng giá trị tinh thần vô giá, trở thành sức mạnh thôi thúc quần chúng trong các phong trào hành động cách mạng. Chính họ đã góp phần nâng cao truyền thống, những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc và nâng thi đua yêu nước lên trình độ mới. Tinh thần làm chủ tập thể được xây dựng trên nền tảng của quan hệ sản xuất XHCN là động lực thúc đẩy sự phát triển của PTTĐ ở miền Bắc những năm 1961-1975.


Tuy nhiên từ trong PTTĐ tập thể rầm rộ đó cũng đã xuất hiện tình trạng PTTĐ ở một số đơn vị, địa phương dần đi vào hình thức, hô hào khẩu hiệu mà thiếu tính thực tiễn. Một số tổ chức chính trị-xã hội đã không quán triệt được tinh thần chỉ đạo của các cấp ủy Đảng. Không chỉ nhân dân mà chính những người trực tiếp phụ trách công tác thi đua chưa nắm vững nguyên tắc lãnh đạo, không hiểu thấu đáo mục đích và ý nghĩa thiết thực của thi đua. Lãnh đạo thi đua có lúc còn nặng tính chất mệnh lệnh và hình thức chủ nghĩa. Bên cạnh các PTTĐ có khả năng khơi dậy sức mạnh tập thể, lôi kéo sự tham gia của đông đảo mọi thành phần xã hội vào cuộc thi đua, cũng có không ít nơi, hoặc lúc này, lúc khác, vì lý do này hay lý do kia mà xuất hiện tình trạng làm việc cầm chừng, dựa dẫm vào tập thể, thiếu tinh thần chủ động, sáng tạo, tập thể đôi khi lại là nơi triệt tiêu tính chủ động sáng tạo của cá nhân. Sự phối hợp giữa Ban thi đua với các đoàn thể, các hội, các tổ chức, giữa Trung ương với các địa phương thiếu ăn khớp, thiếu chặt chẽ, một số địa phương, đơn vị có cách làm máy móc, ỷ lại vào cấp trên trong một thời gian dài. Đặc biệt, khi PTTĐ tập thể ngày càng được đẩy lên cao, xuất hiện tình trạng chạy theo quy mô, số lượng các cụm thi đua đăng ký ngày càng tăng nhưng hiệu quả thực tế của các cụm thi đua có nơi không cao, hoặc trong phạm vi từng cụm, hiệu quả thi đua của các địa phương trong cụm cũng không đồng đều… xảy ra tình trạng một số đơn vị, cụm thi đua mất dần động lực, bỏ bê phong trào, “đầu voi đuôi chuột” nên không phát triển được hết sáng kiến và năng lực của quần chúng.

4.1.1.2. Thi đua yêu nước diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều nội dung và hình thức phong phú nhưng tập trung giải quyết hai nhiệm vụ là sản xuất-xây dựng CNXH và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam.

Từ năm 1961-1975, khí thế thi đua cùng khát khao sáng tạo, khát khao cống hiến đã phá vỡ mọi phạm vi, mọi giới hạn thi đua. TĐYN trên thực tế đã không là việc của riêng cá nhân, tổ chức, ngành, hay địa phương nào. Sự chia cắt về địa lý, sự khác biệt về nhiệm vụ cụ thể của đơn vị không ngăn cản được sự lan tỏa rộng khắp cả các PTTĐYN. Có phong trào diễn ra trên phạm vi từng địa phương, từng đơn vị, từng ngành, giới cụ thể, nhưng cũng có PTTĐ giữa ngành này với ngành khác, đơn vị này với đơn vị khác, địa phương này với địa phương khác. Trong điều kiện hòa bình hay phải chuyển sang thời chiến thì sự phát triển của các PTTĐYN ở miền Bắc vẫn cứ như triều dâng, thác đổ. Giao ước thi đua giữa các địa phương, đơn vị, trường học, xí nghiệp, công trường trở thành phương thức thi đua nổi bật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.


Quán triệt chủ trương thi đua của Đảng, quá trình chức thi đua vừa xuất phát từ đặc điểm tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngành, giới vừa hướng đến giải quyết nhiệm vụ chính trị của cách mạng miền Bắc và cách mạng cả nước. Sự phong phú trong nội dung, sự đa dạng trong hình thức của các PTTĐ đến từ từng địa phương, ngành, giới góp phần tạo nên bức tranh sinh động, đa diện, đa sắc màu của PTTĐYN. Mặc dù trên phạm vi từng địa phương, ngành, giới khác nhau các PTTĐYN có tiêu chí, nội dung và khẩu hiệu hành động khác nhau, được bổ sung, điều chỉnh để có thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử, nhưng tất cả đều hướng đến việc kết hợp chặt chẽ và giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: sản xuất-xây dựng CNXH và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Được quy định bởi điều kiện lịch sử đất nước nói chung và miền Bắc nói riêng, hai nhiệm vụ này được giải quyết qua thực tiễn TĐYN, trong mối liên hệ ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau. Khảo sát các PTTĐYN ở miền Bắc thời kỳ này, khó có thể phân định rõ ràng phong trào nào là giải quyết nhiệm vụ sản xuất-xây dựng CNXH, phong trào nào là giải quyết nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Ngoài vai trò cung cấp nguồn sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam, hậu phương miền Bắc còn là chỗ dựa tinh thần, nơi tạo ra thế và lực của toàn dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ. Giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: sản xuất-xây dựng CNXH và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam là điều kiện và cũng chính là minh chứng sinh động cho quá trình giải quyết mối quan hệ mật thiết gắn bó giữa cách mạng hai miền theo đường lối của Đảng.

Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961 - 1975 - 19

Sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng cùng sự phối kết hợp với các cơ quan ban, ngành, đoàn thể, nhất là trong việc định rõ mục tiêu, nhiệm vụ thi đua là cơ sở quan trọng tạo sức mạnh đồng thuận thúc đẩy PTTĐ phát triển rộng rãi. Thi đua đòi hỏi cách làm sáng tạo, phù hợp với tính chất, đặc thù nghề nghiệp, giai tầng, lứa tuổi, vùng miền sao cho có thể phát huy được tinh thần, sức mạnh tập thể.

Tuy nhiên, thực tiễn các các PTTĐYN ở miềm Bắc những năm 1961-1975 cho thấy, vì lười suy nghĩ, thiếu óc thực tế nên nhiều nơi, nhiều cán bộ rập khuôn, máy móc theo chỉ thị, đường hướng của cấp trên. “Trung ương gửi chỉ thị thế nào, khu cứ thế nguyên văn gửi xuống tỉnh, tỉnh cứ nguyên văn gửi xuống huyện, huyện cứ như thế gửi xuống xã. Chứ không biết điều tra kỹ lưỡng, áp dụng thiết thực” [108, tr.171] Không ít địa phương, đơn vị áp dụng nội dung,


thậm chí là phương thức thi đua của địa phương, đơn vị khác một cách máy móc. “Tổ chức và lãnh đạo còn kém”, sự phối hợp giữa Ban thi đua với các đoàn thể, các hội, các tổ chức; giữa các cấp Trung ương và địa phương thiếu ăn khớp, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng “mỗi một đoàn thể mỗi một ngành đều có một kế hoạch riêng mà các kế hoạch thì không ăn khớp nhau”, cùng một thời điểm có nhiều PTTĐ được phát động một cách riêng lẻ, cùng một cá nhân nhưng phải tham gia nhiều phong trào khi họ phải đóng vai ở nhiều nơi dẫn đến tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, nhân dân thì bù đầu, không đủ sức mà theo tất cả các kế hoạch và không biết nên theo kế hoạch nào.

4.1.1.3. Phong trào thi đua yêu nước về cơ bản mang tính kế thừa và phát triển, xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến có sức lan tỏa sâu rộng, là cơ sở làm dấy lên những cao trào thi đua với hiệu quả ngày càng cao.

PTTĐYN của quân và dân miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975 là một quá trình diễn ra liên tục và ngày càng phát triển. So với PTTĐYN trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trực tiếp là giai đoạn từ 1954-1960 thì sau khi có Nghị quyết số 07 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (26/1/1961), PTTĐYN đã phát triển lên một bước cao hơn và toàn diện hơn. Từ 1961-1975, tính kế thừa, đan xen và phát triển trong PTTĐ giữa các giai đoạn được phản ánh rõ trong nội dung và hình thức thi đua. Sự phát triển của các PTTĐYN ở giai đoạn sau là dựa trên cơ sở sự nghiêm túc đánh giá, rút kinh nghiệm những thành tựu và hạn chế của giai đoạn trước. Việc phân chia ra thành các giai đoạn là mang tính chất tương đối giúp có thể tổng kết, đánh giá còn trên thực tế có nhiều PTTĐ liên tục phát triển qua nhiều giai đoạn. Sự thay đổi trong hình thức và nội dung thi đua chỉ là để đảm bảo sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng cũng như đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị. Từ khởi đầu là các PTTĐ cụ thể đã làm xuất hiện hàng loạt các cuộc vận động, hàng loạt các cao trào TĐYN mạnh mẽ. “Sóng Duyên Hải” được khơi nguồn và phát triển từ phong trào thi đua với Nhà máy cơ khí Duyên Hải. “Gió Đại Phong” được khơi nguồn và phát triển từ PTTĐ với HTX Đại Phong. “Trống Bắc Lý” được khơi nguồn và phát triển từ PTTĐ thi đua và đuổi kịp Trường Cấp II Bắc Lý. “Cờ ba nhất” được khơi nguồn và lan tỏa mạnh mẽ từ PTTĐ với Đại đội 2, đoàn Vinh Quang, thuộc quân khu Hữu Ngạn. “Ba đảm đang” là bước phát triển mới của phong trào “Ba đảm nhiệm”, được khơi nguồn từ cái nôi là PTTĐ của phụ nữ Đan Phượng, Hà Tây. “Ba sẵn sàng”


là bước phát triển mới của phong trào “Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch nhà nước năm năm lần thứ nhất, (1961-1965)”, được khơi nguồn từ phong trào thi đua của thanh niên Thủ đô…

Trong suốt gần 15 năm với những diễn biến phức tạp và khó lường bởi âm mưu thâm độc của kẻ thù, quân dân miền Bắc luôn thể hiện tinh thần chủ động, tích cực thổi bùng ngọn lửa của lòng yêu nước, của ý chí và quyết tâm thống nhất đất nước. Thi đua nối tiếp thi đua, phong trào nối tiếp phong trào, nhiều cá nhân, nhiều tập thể điển hình xuất hiện và mang sức mạnh lan tỏa mà bom đạn và ý chí kẻ thù không thể ngăn cản được. Cuộc kháng chiến càng bước vào giai đoạn ác liệt, nhiệm vụ chính trị đặt ra càng nặng nề thì quyết tâm thi đua càng bùng nổ, cuồn cuộn khí thế sục sôi, là minh chứng thuyết phục nhất và đẹp đẽ nhất về sức mạnh của lòng quả cảm và ý chí ngoan cường. PTTĐYN thực sự trở thành vườn hoa đa sắc, tỏa ngát hương với muôn nghìn bông hoa đẹp. Sức lan tỏa TĐYN không chỉ xuất phát từ công tác tuyên truyền cổ động, mà còn xuất phát từ sự phát hiện, nêu gương, tôn vinh cá nhân và tập thể tiêu biểu, điển hình tiên tiến mang sức mạnh lôi cuốn mọi người sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Từ PTTĐYN của toàn dân, những con người mới, những tấm gương tiêu biểu cho một xã hội mới được hình thành. Những anh hùng và chiến sĩ thi đua tiêu biểu trong lao động sản xuất và chiến đấu đã được tuyên dương và tôn vinh trong các kỳ Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc là hình ảnh của những con người mới XHCN dám “đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết” [109, tr.54].

Từ trong thi đua, xuất hiện nhiều cá nhân, tập thể, từ danh xưng cá nhân, tập thể ấy lại có khả năng làm dấy lên những phong trào, cao trào thi đua mạnh mẽ hơn, rộng rãi hơn, trở thành tên gọi của phong trào mà từ đó chỉ cần nhắc đến tên của cá nhân, tập thể điển hình đã có thể hình dung khí thế sục sôi của một thời kỳ lịch sử oai hùng. 26 Anh hùng Lao động, 446 Chiến sĩ thi đua toàn quốc (được tôn vinh tại Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua lần thứ II, năm 1958); 45 Anh hùng Lao động, 985 Chiến sĩ thi đua toàn quốc (được tôn vinh tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua lần thứ III, năm 1962); 45 tập thể và 111 cá nhân Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (được tôn vinh tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua lần thứ IV, năm 1967)… PTTĐYN tiêu biểu thời kỳ này gần như mang tên của chính cá nhân, tập thể, đơn vị là lá cờ đầu trong từng cuộc vận động, từng PTTĐ.“Gió Đại Phong”,“Sóng Duyên


Hải”,“Trống Bắc Lý”,“Cờ Ba nhất”…đều là các PTTĐ mang tên của lá cờ đầu các tập thể, đơn vị trên các lĩnh vực cụ thể.

Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn của PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961- 1975 cũng có thể nhận thấy, xuất phát từ nhiều lý do, hoặc vì xây dựng chương trình, kế hoạch thi đua còn lủng củng, kém linh hoạt, thiếu chu đáo, tỉ mỉ; hoặc vì đặt kế hoạch thi đua không sát với hoàn cảnh, thực tiễn địa phương, hoặc vì đặt kế hoạch to quá rồi không làm nổi…làm nảy sinh tình trạng ở một số địa phương, ban, ngành cụ thể, một số PTTĐ cụ thể ban đầu thì được thực hiện ồ ạt, nhưng ít lâu sau lại đuối sức, không tiếp tục thi đua được nữa. Cũng có lúc, có nơi vì nhân dân, mà trước hết là cán bộ, chưa hiểu thật rõ ràng ý nghĩa của PTTĐYN, vì “tư tưởng thi đua chưa thấm nhuần, thấu suốt mọi người, vì cán bộ giải thích kém” [109, tr.110] mà dẫn đến tình trạng “tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày”, “tưởng lầm rằng thi đua chỉ là nhất thời” [108, tr.169]. Cũng có nơi, các cơ quan phụ trách công tác thi đua chưa thấy hết trách nhiệm của mình, hoặc bộ máy chuyên trách yếu, hàng năm chỉ chú ý tổ chức vài kỳ xét duyệt khen thưởng…đã ảnh hưởng không nhỏ đễn quá trình phát hiện, phát huy, nhân rộng những cá nhân, tập thể điển hình, thậm chí dẫn đến tình trạng không thể kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quá trình phát động và tổ chức thi đua. Cũng có tình trạng, cá nhân những điển hình tiên tiến thi đua chưa được thường xuyên, thiếu liên tục. Cán bộ lãnh đạo có khi không theo dõi, bồi dưỡng những cá nhân điển hình tiên tiến, có khi ngược lại, máy móc kéo các nhân điển hình đi hết hội nghị này đến hội nghị khác, cứ lo báo cáo mà ngày càng xa rời thực tiễn PTTĐ.

4.1.2. Ý nghĩa

4.1.2.1. Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ những năm 1961-1975 là minh chứng thuyết phục cho tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa

Nhân tố đóng vai trò quan trọng giúp quân dân miền Bắc vượt qua thử thách ác liệt của hai cuộc chiến tranh phá hoại đồng thời có thể huy động được một khối lượng vật chất khổng lồ chi viện cho miền Nam chính là sức mạnh của yếu tố chính trị, tinh thần. Trên nền tảng của chế độ xã hội mới, khắp nơi trên miền Bắc đã nhanh chóng dấy lên phong trào toàn dân chống Mỹ, cứu nước với nội dung và hình thức phong phú. Tác giả của các PTTĐYN đó là những người trưởng thành trong chế độ xã hội mới, dưới mái trường XHCN, được giác ngộ


chính trị, có trình độ văn hóa, có phẩm chất đạo đức và sức khỏe tốt. Khát khao cống hiến xuất phát từ tình cảm và niềm tin mà họ dành cho chế độ xã hội mới. Tính chất ưu việt của chế độ xã hội mới đã trở thành cơ sở cho việc khơi dậy và phát huy cao nhất sức mạnh vật chất, tinh thần hợp nên nguồn năng lực nội sinh to lớn có thể đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961-1975 hướng đến giải quyết những vấn đề cốt tử của cách mạng, nhằm hoàn thành những mục tiêu trước mắt và lâu dài, nhưng chung quy, đó là mục tiêu vì con người. Trong điều kiện chiến tranh, khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trở thành nhiệm vụ thiêng liêng và tối cao, Đảng và Chính phủ vẫn rất quan tâm đến vấn đề khơi dậy và bồi dưỡng sức dân. Các cơ quan lãnh đạo, cơ quan quản lý, các đoàn thể, các cấp, ngành từ cơ sở đã thể hiện trách nhiệm của mình trong việc cải thiện điều kiện lao động nhất là ở những khâu làm việc nặng nhọc nhằm ngày càng giảm thiểu tai nạn lao động, góp phần nâng cao hứng thú lao động, tinh thần yêu ngành, yêu nghề. PTTĐYN càng sôi nổi, sản xuất càng phát triển, công cuộc chống Mỹ càng thắng lợi lớn thì đời sống nhân dân càng không ngừng được cải thiện (bao gồm ăn, mặc, ở, học hành, nghỉ ngơi, giải trí, sức khỏe, điều kiện làm việc). Nhân dân lao động được học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật dưới nhiều dạng trường lớp thích hợp. Ngay trong điều kiện sơ tán, nhiều lớp bổ túc văn hóa buổi tối vẫn được tiến hành. Sách văn hóa, nghệ thuật, kỹ thuật…vẫn theo chân người lao động trên các ngả đường sơ tán góp phần nâng cao kiến thức, trình độ nghề nghiệp và tình cảm tốt đẹp giữa con người với con người. Tính chất ưu việt của chế độ XHCN vừa là mục đích, nhưng cũng đồng thời là động lực của TĐYN. Thậm chí, tính chất ưu việt, những giá trị nhân văn của chế độ XHCN được phản ảnh ngay trong từng nội dung cụ thể của một số PTTĐ.

Từ thực tiễn phát sinh, phát triển các PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961-1975 đã hình thành và phát triển mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi, riêng và chung. Sự rõ ràng về mục tiêu, lý tưởng đã tạo nền tảng cho việc xây dựng một tinh thần tập thể đoàn kết với sự thống nhất về tư tưởng và hành động. Lợi ích và thành tích tập thể được đề cao nhưng lợi ích và thành tích của cá nhân cũng hết sức coi trọng và chăm sóc. Trí tuệ, sức mạnh của tập thể được chung đúc từ sức mạnh, trí tuệ của mỗi cá nhân. Thông qua phát động và tổ chức các PTTĐYN, miền Bắc không chỉ khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần lạc quan

Xem tất cả 209 trang.

Ngày đăng: 31/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí