Điều này sẽ gây ra những rào cản lớn trong phát triển mô hình tập đoàn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Một trong các ưu ái đó là nguồn vốn tín dụng vẫn được ưu tiên cho khu vực quốc doanh, trong đó chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Với cơ chế tín dụng thiếu minh bạch, hiệu quả hoạt động thực sự của các tập đoàn quốc doanh rất khó đánh giá bởi lợi nhuận từ hoạt động có thể do những ưu đãi từ việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng. Nếu như năm 2000, số vay giành cho các các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 30% tổng vốn vay ở Việt Nam thì con số này năm 2004 là 50%. Số liệu đến tháng 6 năm 2008 cho thấy, trong số 70 tập đoàn, tổng công ty thì có 30 đơn vị có hệ số nợ phải trả trên vốn vượt trên 3 lần, thậm trí nhiều doanh nghiệp vượt trên 20 lần như Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam gấp 21,5 lần, Tập đoàn Vinashin gấp 21,8 lần ...16 Chỉ số này quá cao so với mức an toàn 3 cho phép, thậm chí còn cao hơn cả tỷ lệ trong các tập đoàn Chaebol của Hàn Quốc đã bị phá sản hồi khủng hoảng năm 199717. Trong khi đó các tập đoàn tư nhân cùng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là hai khu vực kinh tế năng động nhất lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ các ngân hàng.
Theo tài liệu nghiên cứu Đánh giá khu vực kinh tế tư nhân của Ngân hàng phát triển Á châu nhận xét rằng “Trong khi vẫn chưa đủ dữ kiện để thẩm định vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước đã ảnh hưởng đến mức độ nào đối với những hạn chế trong phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, song sự khống chế của các doanh nghiệp Nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định rõ ràng đã ngăn cản không cho sự hình thành của các doanh nghiệp tư nhân đủ lớn mạnh để cạnh tranh.” Trường hợp điển hình là trước đây, doanh nghiệp sản xuất phần mềm FPT đã được Nhà nước tập trung đầu tư nên có khả năng thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao, có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân khác trong việc cạnh tranh trong các dự án lớn. Ngoài ra còn có rất nhiều tập đoàn Nhà nước như Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn
16 Đến lúc siết lại Tập đoàn – Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số ra ngày 30/4/2008, http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/5309/
17 Bản thảo luận chính sách số 2, Báo cáo của Havard Kenedy School, ngày 24/6/2008, trang 11.
Bưu chính viễn thông được hưởng rất nhiều ưu đãi độc quyền của Nhà nước đã triệt tiêu hết năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, tập đoàn khác.
Yêu cầu công khai hóa trong hoạt động của công ty thành viên, tập đoàn kinh tế chưa được thể chế hóa và trở thành yêu cầu bắt buộc. Nhìn chung nếu luật pháp không bắt buộc thì các công ty có xu hướng không muốn công khai hóa, thông tin càng xấu thì lại càng không muốn công khai. Hầu hết các quốc gia phát triển, luật pháp yêu cầu phải công bố các thông tin cơ bản về công ty như doanh thu, lợi nhuận, lao động, giá trị tài sản, giá trị thị trường…để các nhà đầu tư định giá đúng thực trạng hoạt động để có thể đưa ra quyết định đầu tư hợp lý. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế ở Việt Nam đặc biệt tập đoàn Nhà nước chưa bị bắt buộc công khai hóa và chưa phải chịu trách nhiệm với tính chính xác của thông tin nên rất khó thực hiện cơ chế giám sát của cộng đồng, của các nhà đầu tư. Các số liệu tài chính của những tập đoàn Nhà nước này cũng thường xuyên không kiểm chứng được tính chính xác.
Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định nhóm những người có liên quan với giám đốc chỉ bao gồm bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột nhưng trên thực tế, mối quan hệ này đa dạng và phức tạp hơn nhiều từ các cá nhân đảm nhiệm trong các cơ quan quản lý nhà nước đến lãnh đạo các doanh nghiệp liên quan, các cá nhân trong cơ quan đại diện chủ sở hữu…Trong một số trường hợp, các vi phạm không được xử lý nghiêm, mà vi phạm rõ ràng cũng phải chờ đến dư luận bất bình một thời gian dài mới thấy có phản hồi. Điều này càng làm cho các tập đoàn vi phạm lại càng vi phạm thêm nữa. Tóm lại, thiếu công khai, minh bạch ở các công ty, tập đoàn kinh tế là nguyên nhân sâu sa của tình trạng kém hiệu quản nhưng không bị phát hiện kịp thời…ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của mô hình này.
Chức năng quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh ở các tập đoàn quốc doanh chưa tách bạch. Hiện nay, cơ quan Bộ hoặc Thủ tướng vẫn phải phê duyệt các quyết định quan trọng của các tổng công ty Nhà nước. Trong điều lệ của một số tập đoàn các kế hoạch dài hạn, tổ chức lại mô hình, phê duyệt dự án nhóm A, bổ nhiệm nhân sự cấp cao…vẫn phải trình Bộ hoặc Thủ tướng phê duyệt. Thực tế cho thấy,
có trường hợp doanh nghiệp đầu tư không hiệu quả, song do Thủ tướng phê duyệt quyết định đầu tư nên Chính phủ khó yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm. Cơ chế chủ quan không những chưa được giải quyết dứt điểm mà còn phát triển sang một số lĩnh vực mới, chẳng hạn việc chuyển từ Bộ chủ quản sang Thủ tướng chủ quản đối với các tổng công ty 91. Ngoài ra tư tưởng nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn hay quá nhấn mạnh đến quyết định hành chính xem nhẹ các quy luật khách quan…cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập hiện nay.
Nhà nước chưa và chưa kiểm soát triệt để độc quyền. Tình trạng độc quyền của một số tổng công ty Nhà nước một mặt do nỗ lực mở rộng thị trường của chính những doanh nghiệp này, mặt khác do đặc thù ngành nghề mang tính độc quyền tự nhiên nhưng quan trọng hơn, vị thế có được chủ yếu do các chính sách của Nhà nước mang lại. Chẳng hạn Tập đoàn Bưu chính Viễn thông vừa kinh doanh dịch vụ, vừa quản lý đường trục dẫn đến những xung đột về lợi ích với các doanh nghiệp cùng ngành như vụ việc giữa tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) thời gian qua. Hơn nữa Nhà nước luôn hô hào khẩu hiệu hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân, tạo môi trường bình đẳng nhưng trong suốt một thời gian dài vừa qua không hề thấy bất cứ động thái nào được thực hiện.
3.3.3 Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Bảng xếp hạng của Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2008 cho thấy mặc dù Việt Nam đã phần nào cải thiện môi trường kinh doanh, tăng 13 hạng bậc so với năm trước, song vị trí trên thường trường quốc tế vẫn còn rất yếu thế: Singapore (hạng 1/178), Thái Lan (15), Malaysia (24), Trung Quốc (83), Việt Nam (91),
Indonesia (123), Philippines (133).
Bảng 2.14 : Thứ hạng một số tiêu chí môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2008
Thứ hạng năm 2007 | Năm 2008 | Tăng/giảm (+/-) | |
Chí thành lập doanh nghiệp | 97 | 97 | 0 |
Thủ tục cấp giấy phép | 25 | 63 | -38 |
Đăng ký tài sản | 34 | 38 | -4 |
Nộp thuế | 120 | 128 | -8 |
Giải thể Doanh nghiệp | 116 | 121 | -5 |
Vay vốn và tín dụng | 83 | 48 | +35 |
Thực thi hợp đồng | 94 | 40 | +54 |
Tuyển dụng và sa thải lao động | 104 | 84 | +20 |
Thương mại quốc tế | 75 | 63 | +8 |
Bảo vệ nhà đầu tư | 170 | 165 | +5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Công Ty Mẹ Với Các Doanh Nghiệp Thành Viên
- Những Tác Động Cơ Bản Của Tập Đoàn Kinh Tế Việt Nam
- Trình Độ Lao Động Của Tập Đoàn Hòa Phát Năm 2007-2008
- Mở Rộng Đầu Tư Nhưng Cần Chú Ý Giới Hạn Đa Dạng Hóa Ngành Nghề
- Một Số Kiến Nghị Đối Với Chính Phủ Và Nhà Nước
- Sự phát triển của mô hình tập đoàn ở Việt Nam - Thực trạng và hướng phát triển - 13
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
(Nguồn: Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2008)
Mặc dù môi trường kinh doanh của Việt Nam trong những năm gần đây được cải thiện đáng kể với hệ thống pháp luật liên tục được sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới nhưng các loại thị trường phát triển vẫn chưa đồng bộ, nhất là thị truờng tài chính và thị trường vốn. Chính điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những yếu kém về trình độ tích tụ, tập trung và khả năng huy động vốn của các tập đoàn kinh tế. áp lực cạnh tranh quốc tế từ khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO cũng là một trong những nguyên nhân của kết quả hoạt động chưa mạnh mẽ như hiện nay. Với bề dày kinh nghiệm, có lịch sử phát triển lâu dài, quản lý hiện đại và tiềm lực tài chính rất lớn, nếu cạnh tranh trong môi trường công bằng, các tập đoàn Việt Nam sẽ gặp phải không ít khó khăn khi cạnh tranh với các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài.
Như vậy, mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng nhìn nhận một cách tổng thể trên các mặt quy mô, trình độ tích tụ vốn, cơ chế chính sách, các quan hệ liên kết, các vấn đề nội bộ…trong các tập đoàn kinh tế thí điểm, các tổng công ty 91 cho thấy, về cơ bản chúng đã đáp ứng được các yêu cầu của một tập đoàn kinh tế. Ngoài một số tập đoàn kinh tế thí điểm, các tổng công ty như Hàng không, Xi măng, Hàng Hải…đã tạo lập được những điều kiện ban đầu và có triển vọng phát triển thành tập đoàn thực thụ, có sức mạnh và năng lực cạnh tranh.
Chương III: Giải pháp và hướng phát triển cho mô hình tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
1. Xu hướng hình thành các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế thế giới đã mở ra rất nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều này khiến cho các chính sách đầu tư dần được nới lỏng đồng thời các rào cản thương mại cũng được gỡ bỏ, từ đó tạo tiền đề cho các doanh nghiệp nước ngoài trong đó có các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới thâm nhập vào thị trường nước ta dễ dàng hơn. Khi đó, sự cạnh tranh gay gắt là điều không thể tránh khỏi và các doanh nghiệp Việt Nam muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi bắt buộc là phải mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề…và cuối cùng là hình thành và phát triển lên quy mô tập đoàn kinh tế.
Ngoài ra, việc hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam là phù hợp với tất yếu kinh tế và xu hướng phát triển chung của các mô hình kinh doanh trên thế giới. Ở các nước phát triển, việc hình thành các tập đoàn kinh tế là rất phổ biến. Nó vừa là kết quả của quá trình tích tụ tư bản, vừa là hệ quả tất yếu của quá trình tự do hóa thương mại. Khi kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu con người không ngừng tăng cao, các tập đoàn cũng từ đó bành trướng quy mô thế lực để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó đồng thời hợp tác, liên kết để tận dụng lợi thế của nhau. Mặt khác, trong quá trình cạnh tranh, những doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ tiềm lực sẽ dễ rơi vào tình trạng phá sản, bị mua lại hay sát nhập vào các doanh nghiệp lớn hơn để tồn tại. Từ đó hình thành các tập đoàn kinh tế với các loại hình thức cả liên kết ngang và liên kết dọc.
Trong thời gian vừa qua, các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam chủ yếu chuyển đổi từ các tổng công ty Nhà nước và hình thành dựa trên sự đầu tư của Chính phủ. Tuy nhiên, với những hạn chế và yếu kém rõ ràng, các tập đoàn Nhà nước này sẽ không
thể tồn tại và phát triển lên được. Thực tế lịch sử đã chứng minh sự thất bại của mô hình tập đoàn Nhà nước mà Keiretsu của Nhật Bản và Chaebol của Hàn Quốc là những ví dụ điển hình. Mặt khác, cùng với sự phát triển năng động của kinh tế thị trường, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân trong khoảng 5 năm gần đây đạt trên 10% (cao hơn so với mức tăng trưởng cao nhất 8%/năm của cả nền kinh tế), đặc biệt đã có rất nhiều tập đoàn tư nhân có mức tăng trưởng doanh thu lên tới 40%-50%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 1986 đạt 500 triệu USD tăng lên 9,2 tỷ USD vào năm 1997 và 35 tỷ USD vào năm 2007. Những tập đoàn này, với sự năng động, nhanh nhạy cộng thêm một thế và lực mới về nhiều mặt như tài chính, nhân sự, năng lực kinh doanh…đã đưa khu vực kinh tế tế tư nhân nên một tầm phát triển mới. Và tất yếu xu hướng phát triển của các tập đoàn tại Việt Nam sẽ là xu hướng tích tụ, tập trung vốn, và hình thành các tập đoàn kinh tế dựa trên tính tất yếu của thị trường chứ không phải bằng quyết định hành chính như trước nữa.
2. Định hướng và giải pháp hình thành, phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Sự ra đời và phát triển một số tập đoàn kinh tế quốc doanh và dân doanh tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây đã cho thấy không ít bất cập. Do đó nó đòi hỏi một chiến lược cụ thể và rõ ràng. Muốn vậy, thì điều đầu tiên là phải xây dựng, xem xét, đánh giá và thống nhất các quan điểm, định hướng phát triển tập đoàn hiện nay.
2.1. Xây dựng tập đoàn kinh tế có trọng điểm và có chọn lọc
Các tập đoàn trên thế giới có lịch sử phát triển hàng trăm năm, nhưng đây vẫn là một mô hình khá mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy, Nhà nước và Chính phủ cần lựa chọn các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp đủ tiềm lực, yếu tố về quy mô, vốn, hiệu quả hoạt động để hỗ trợ phát triển thành mô hình tập đoàn tránh dàn trải, chạy đua theo thành tích số lượng và hơn hết là tránh can thiệp bằng các quyết định hành chính. Hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam cần xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế, từ thực lực bản thân của công ty, không nên gò ép bởi những tác động ngoài
kinh tế. Một điểm cần lưu ý là nên tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch và bình đẳng, mang tính hỗ trợ để thúc đẩy các tập đoàn tư nhân phát triển.
2.2. Lựa chọn mô hình
Không có một mô hình chung cho tất cả các tập đoàn kinh tế. Mỗi doanh nghiệp trên cơ sở đặc điểm ngành, nghề, liên kết hay cấu trúc…sẽ lựa chọn mô hình phù hợp nhằm phát huy thế mạnh, phù hợp với điều kiện kinh tế.
3.2.1 Về sở hữu
Đa sở hữu là nguyên tắc bắt buộc khi xây dựng các tập đoàn kinh tế. Lịch sử phát triển ở các nước trên thế giới cũng chứng minh quá trình cổ phần hóa là điều kiện thiết yếu để hình thành một tập đoàn vững mạnh. Và chính thực tế Việt Nam cũng cho thấy sự chuyển đổi các doanh nghiệp theo hướng cổ phần hóa sẽ làm tăng hiệu quả cho doanh nghiệp, từ đó các tập đoàn của các doanh nghiệp này cũng sẽ phát triển theo. Một cuộc điều tra năm 2006 tại 550 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa cho thấy gần 90% doanh nghiệp tham gia điều tra cho rằng tình hình tài chính được cải thiện, doanh thu bình quân tăng 13%, lợi nhuận trước thuế tăng 9%, cao hơn nhiều so với doanh nghiệp chưa cổ phần hóa 18. Do vậy, cần kiên quyết thực hiện lộ trình cổ phần hóa 71 tổng công ty Nhà nước, tập đoàn kinh tế Nhà nước giai đoạn 2007-2010 đã được thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành kèm theo Quyết định số 1729/QD-TTg ngày 29/12/2006. Các công ty con trong các tập đoàn tư nhân cũng cần được tiến tới cổ phần hóa hoàn toàn trong giai đoạn sớm nhất có thể. Tiến trình cổ phần hóa sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong tập đoàn tiếp cận trực tiếp với thị trường trong đó có thị trường chứng khoán, từ đó hiệu quả hoạt động cũng như cơ hội đầu tư và được đầu tư đều tăng lên. Song song với tiến trình cổ phần hóa cần tiếp tục đổi mới, quy định lại tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay chưa có đầy đủ cơ hội tham gia vào các lĩnh vực tiềm năng như bưu chính viễn thông, ngân hàng… Mặc dù có khá nhiều thay đổi ở chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài,
18 Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2007, trang 63
tăng giới hạn tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp nước ngoài từ 30% lên 49%…nhưng thực sự môi trường đầu tư của nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập.
3.2.2 Về cấu trúc
Lịch sử phát triển các tập đoàn kinh tế cũng đã chỉ ra rằng cấu trúc mô hình công ty mẹ - công ty con là một mô hình hoàn hảo cho sự phát triển các tập đoàn bởi đây là quá trình phát triển chọn lọc, lâu dài và tất yếu. Chúng ta đều biết rằng, nếu một doanh nghiệp không nắm quyền sở hữu về vốn thì không thể kiểm soát được tài chính dẫn đến không thể quản lý các mặt khác của doanh nghiệp. Mô hình cấu trúc công ty mẹ - công ty con đã khắc phục được điểm này, đồng thời nó cũng tạo ra khả năng linh hoạt để điều chỉnh quy mô của tập đoàn, phù hợp với điều kiện từng thời kỳ. Do đó, mối quan hệ giữa tập đoàn và các đơn vị thành viên và giữa các đơn vị thành viên với nhau sẽ được giải quyết triệt để trên cơ sở đảm bảo tư cách pháp nhân của các thành viên.
Để cấu trúc công ty mẹ - công ty con thực sự phát huy hiệu quả, trước mắt cần tập trung nâng cao năng lực công ty mẹ bằng các biện pháp như bổ sung vốn, tăng cường tiềm lực tài chính, nắm giữ khâu quan trọng trong quy trình sản xuất của tập đoàn…
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các công ty mẹ một mặt chưa đủ năng lực tài chính cần thiết, do đó có thể vừa nắm vốn, vừa nắm sản xuất. Sau quá trình phát triển lớn mạnh tùy thuộc vào chiến lược của mỗi tập đoàn, các công ty mẹ có thể lựa chọn phương án chỉ nắm vốn hoặc vừa nắm vốn vừa kinh doanh sản xuất. Nếu công ty mẹ hướng vào nắm vốn cần từng bước tách các doanh nghiệp kinh doanh khỏi công ty mẹ, chuyển các công ty này thành công ty con và thực hiện các quyền của công ty mẹ thông qua tỷ lệ vốn góp.
Cơ cấu của công ty mẹ cần xây dựng theo hướng phát huy sự liên kết, phối hợp giữa các công ty con, nghĩa là cần xây dựng những phòng, ban chức năng, phân