Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Ở những nước phát triển,thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể.
Hầu hết mọi giao dich thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh toán trực tuyến (ONLINE) vì vậy tốc độ chu chuyển,thanh toán nhanh hơn nhiều so với những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi… Để góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Các dịch vụ thanh toán điện tử tiên tiến sẽ giúp cho chu chuyển vốn trên thị trường trong nước tăng nhanh và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thanh toán của nền kinh tế đất nước đang thay đổi.
Dịch vụ thẻ đã tạo ra một kênh dẫn vốn quan trọng cho các ngân hàng, vì hầu hết lượng thẻ phát hành đều gắn với tài khoản tiền gửi cá nhân và có một số dư tiền gửi nhất định trong đó
Thanh toán qua thẻ chiếm tỷ trọng lớn, từ đó các ngân hàng kiểm soát các giao dịch đầy đủ và cập nhật. Nhà nước dựa vào đó đưa ra các chính sách vĩ mô và thực thi như chính sách thuế thu nhập, chính sách ngoại hối
Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện đại hơn. Đây cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch,các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó - kinh tế thị trường - thì ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Ðiều 20 Luật các TCTD (luật số 02/1997/QH 10): Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các Công ty, Xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á - 1
- Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Nam Á - 2
- Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Kinh Doanh Thẻ Của Ngân Hàng
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Nam Á
- Cơ Cấu Quản Trị Ngân Hàng - Sơ Đồ Cơ Cấu Tổ Chức Ngân Hàng Tmcp Đông Nam Á
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm… cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Như vậy ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Từ đó có thể nói bản chất của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các
điểm sau:
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế
- Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
1.2.2. Hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Nghiệp vụ phát hành thẻ
Việc phát hành thẻ phải dựa trên cơ sở luật quốc gia nơi thẻ được phát hành, cụ thể là các quy chế về phát hành thẻ do ngân hàng trung ương hoặc cơ quan quản lý tiền tệ của quốc gia đó ban hành. Ngoài ra, việc phát hành thẻ thanh toán quốc tế còn phải được sự đồng ý của tổ chức thẻ quốc tế thông qua hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành với các tổ chức thẻ quốc tế, đồng thời tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành của các tổ chức thẻ quốc tế. Dựa trên các cơ sở này, mỗi ngân hàng phát hành sẽ có những quy chế riêng về phát hành thẻ do Ban Lãnh đạo ngân hàng phát hành quy định.
Chủ thẻ
(3- NH mở Tk)
Tài khoản thẻ
Ngân hàng phát hành
(1- Khác hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ cho NH)
(4- Nh trả thẻ)
(2- Nh kiểm tra)
Hình 1.1: Quy trình nghiệp vụ phát hành thẻ
(Nguồn: Ngân Hàng Đông Nam Á)
(1) Khách hàng nộp hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ cho ngân hàng phát hành Ngân hàng phát hành yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ phát hành thẻ với
đầy đủ thông tin theo quy định.
(2) Ngân hàng phát hành kiểm tra tính chính xác, hợp lệ của các thông tin trên hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ do khách hàng khai báo. Đối chiếu, tham khảo với các thông báo phòng ngừa rủi ro (nếu có) của các cơ quan khác và các cơ quan hữu quan.
(3) Sau khi hồ sơ được chấp nhận, ngân hàng mở tài khoản thẻ cho khách hàng, thu phí phát hành thẻ, lập hồ sơ quản lý thẻ, xác định hạng thẻ và loại thẻ, xác định hạn mức tín dụng đối với thẻ tín dụng, tiền hành mã hoá thẻ, xác định số PIN và in thẻ.
(4) Ngân hàng tiến hành giao thẻ cho khách hàng một cách an toàn và đảm bảo bí mật. Chủ thẻ nhận thẻ và ký vào giấy giao nhận thẻ và băng chữ ký ở mặt sau của thẻ.
Khi phát hành thẻ, ngân hàng phát hành phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau có liên quan như:
- Tổ chức các hoạt động tiếp thị, tuyên truyền cho người sử dụng thẻ.
- Thẩm định và xét duyệt đơn xin phát hành thẻ.
- Quyết định cấp hạn mức tín dụng cho chủ thẻ.
- Thiết kế mẫu và đặt in thẻ trắng theo mẫu quy định.
- Phát hành thẻ mới và phát hành lại thẻ hết hạn.
- Mã hoá thẻ, cấp mã số cá nhân cho chủ thẻ.
- Xử lý, cấp phép thanh toán thẻ theo đúng quy định của tổ chức thẻ quốc tế.
- Cung cấp các dịch vụ trợ giúp khách hàng.
- Thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ của chủ thẻ với các ngân hàng thanh toán thông qua tổ chức thẻ quốc tế.
- Xử lý các tra soát, khiếu kiện của khách hàng.
- Tổ chức thu nợ và theo dõi việc trả nợ của khách hàng.
- Theo dõi và xây dựng hệ thống quản lý rủi ro.
Triển khai hoạt động phát hành thẻ, ngoài việc đươc hưởng phí phát hành thẻ thu được từ chủ thẻ, thu lãi phạt do nộp thanh toán sao kê chậm, các ngân hàng còn được hưởng khoản phí trao đổi do ngân hàng thanh toán thẻ chia sẻ từ phí thanh toán thẻ thông
qua các tổ chức thẻ quốc tế. Đây là phần lợi nhuận cơ bản nhất của các tổ chức tài chính và ngân hàng phát hành thẻ. Dựa trên cơ sở nguồn thu này, các tổ chức tài chính và ngân hành phát hành thẻ đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng để mở rộng lượng khách hàng sử dụng thẻ cũng như tăng doanh số sử dụng thẻ.
1.2.2.2. Nghiệp vụ thanh toán
Cũng giống như phát hành thẻ, việc thanh toán thẻ cũng phải dựa trên pháp luật, quy chế về thẻ của nước sở tại, của ngân hàng phát hành và tổ chức thẻ quốc tế.
1-mua hàng hóa dịch vụ hoặc
ứng tiền mặt
Cùng với phát hành, hoạt động thanh toán thẻ đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của dịch vụ thẻ. Việc triển khai hoạt động thanh toán thẻ của một ngân hàng không chỉ là thu lợi nhuận từ nguồn phí chiết khấu tính trên giá trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ các đơn vị chấp nhận thẻ mà còn là mong muốn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn chỉnh, tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng thẻ.
CHỦ THẺ
ĐƠN VỊ CHẤP NHẬN THẺ
NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH
3-Tạm ứng
2-hóa đơn thanh toán
8-Sao kê
9-Thanh toán
6-gửi dữ liệu
7-báo nợ
4-gửi dữ liệu
TỔ CHỨC THẺ QUỐC TẾ
NGÂN HÀNG THANH TOÁN
5-báo có
Hình 1.2: Quy trình nghiệp vụ thanh toán thẻ
(Nguồn: Ngân hàng TMCP Đông Nam Á)
(1) Chủ thẻ dùng thẻ của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT). ĐVCNT khi nhận được thẻ từ khách hàng phải kiểm tra tính hợp lệ. Nếu hợp lệ ĐVCNT sẽ cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ hoặc tiền mặt cho khách hàng.
(2) ĐVCNT giao dịch với ngân hàng: gửi hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thanh toán.
Hoá đơn thanh toán thẻ được lưu tại ngân hàng thanh toán thẻ dùng làm chứng từ gốc để kiểm tra, giải quyết khiếu nại (nếu có).
(3) Ngân hàng thanh toán ghi có vào tài khoản của ĐVCNT.
(4) Thanh toán với tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên khác.
Cuối mỗi ngày ngân hàng tổng hợp toàn bộ dữ liệu các giao dịch phát sinh từ thẻ do ngân hàng khác phát hành và truyền dữ liệu cho tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT).
(5) TCTQT báo có cho ngân hàng thanh toán (NHTT). TCTQT sau khi nhận được dữ liệu từ NHTT sẽ tiến hành ghi có cho ngân hàng. Dữ liệu mà TCTQT truyền về bao gồm những khoản NHTT đã trả, những khoản phí phải trả cho TCTQT, những giao dịch bị tra soát.
(6) TCTQT truyền dữ liệu cho ngân hàng phát hành (NHPH) thẻ.
(7) TCTQT báo nợ cho NHPH.
(8) Trên cơ sở đó NHPH gửi sao kê cho chủ thẻ.
(9) Chủ thẻ thanh toán nợ cho NHPH: Sau khi nhận được sao kê chủ thẻ sẽ phải tiền hành trả tiền cho những khoản hàng hoá dịch vụ mà mình đã tiêu dùng.
Trong một số trường hợp ĐVCNT phải liên hệ với NHPH hoặc TCTQT (thay mặt NHPH) để xin cấp phép thanh toán thẻ tín dụng. Cấp phép thanh toán là việc NHPH thẻ trực tiếp hoặc thông báo TCTQT chuẩn bị giao dịch thẻ bằng cách cung cấp số cấp phép hoặc có yêu cầu xử lý thích hợp đối với giao dịch xin cấp phép.
Đối với giao dịch phải xin cấp phép, ĐVCNT phải xin cấp phép tự động hoặc liên hệ NHPH để xin cấp phép theo quy định. Các giao dịch phải xin cấp phép gồm:
+ Toàn bộ các giao dịch ứng tiền mặt
+ Các giao dịch thực hiện bằng máy EDC
+ Đối với các giao dịch thường, nếu số tiền của giao dịch bằng hoặc lớn hơn hạn mức thanh toán của ĐVCNT
Ngoài ra trong quá trình thanh toán thẻ còn có thể phát sinh nghiệp vụ tra soát, khiếu nại và đòi bồi hoàn.
1.2.2.3. Rủi ro trong kinh doanh thẻ
* Rủi ro trong phát hành thẻ:
Đơn phát hành thẻ với các thông tin giả mạo: Đơn xin phát hành thẻ của khách hàng có các thông tin giả mạo hoặc không đầy đủ, khi thẩm định nếu ngân hàng không phát hiện ra sẽ dễ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng khi chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán.
Thẻ giả: Những thẻ này được làm căn cứ vào thông tin có được từ chứng từ giao dịch thẻ, hoặc từ thẻ bị mất cắp hay thẻ bị thất lạc. Đây có thể nói là loại rủi ro nguy hiểm nhất mà các tổ chức thẻ rất quan tâm và có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng phát hành vì theo luật tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ sẽ phải chịu trách nhiệm với mọi giao dịch mang mã số ngân hàng phát hành thẻ.
Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng: Ngân hàng phát hành thẻ nhận được thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ và được yêu cầu gửi thẻ mới về địa chỉ này. Rủi ro xảy ra khi thẻ bị sử dụng mà chủ thẻ đích thực không biết. Mọi tổn thất do giao dịch phát sinh trên thẻ này Ngân hàng phát hành phải chịu.
Chủ thẻ không nhận được thẻ do Ngân hàng phát hành thẻ gửi: Ngân hàng phát hành thẻ gửi thẻ cho chủ thẻ qua đường bưu điện, nhưng thẻ đã bị đánh cắp trên đường đi, do vậy thẻ bị sử dụng mà chủ thẻ thực sự không biết. Rủi ro này Ngân hàng phát hành phải chịu.
Thẻ mất cắp, thất lạc: thẻ bị mất cắp, thất lạc mà chủ thẻ chưa kịp thông báo cho Ngân hàng phát hành thẻ để khoá thẻ sẽ gặp rủi ro nếu tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng và Ngân hàng phát hành không phải chịu trách nhiệm trong trường hợp này.
* Rủi ro trong thanh toán thẻ:
Thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ qua thư, điện thoại: Rủi ro này xảy ra khi Đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp hàng hoá dịch vụ yêu cầu qua thư, fax dựa trên các thông tin giả mạo như: số thẻ, loại thẻ, tên chủ thẻ, ngày hiệu lực.
Sao chép, tạo băng từ giả:Các tổ chức tội phạm lấy cắp thông tin trên băng từ thẻ thật được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ, chúng mã hoá để tạo ra thẻ giả. Cách thực này khá tinh vi, ngân hàng rất khó phát hiện và gây tổn thất lớn cho ngân hàng phát hành thẻ.
Nhân viên đơn vị chấp nhận thẻ in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ: khi thực hiện giao dịch, nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ cố tình in nhiều hoá đơn thanh toán nhưng chỉ giao một hoá đơn cho chủ thẻ kí. Sau đó nhân viên này giả mạo chữ kí của chủ thẻ và nộp những hoá đơn đó cho Ngân hàng đòi tiền.
Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi thẻ được sử dụng nhưng không được thanh toán.
Ngoài những rủi ro nêu trên còn có các rủi ro do: lộ PIN, hệ thống máy móc bị trục trặc, Đơn vị chấp nhận thẻ vượt quá hạn mức giao dịch không xin phép.
1.3. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM THẺ NGÂN HÀNG
1.3.1. Khái niệm và quan điểm phát triển sản phẩm thẻ
Sản phẩm thẻ của ngân hàng là loại sản phẩm dịch vụ là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhất định của khách hàng trên thị trường tài chính. Trong khi nhu cầu của con người luôn thay đổi nhất là trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, sức ép cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính ngày càng lớn không có sản phẩm nào là phù hợp vĩnh viễn mà buộc phải được cải tiến, phát triển mới có thể đứng trên thị trường. Phát triển sản phẩm thẻ ngân hàng không nằm ngoài quy luật đó.
Phát triển sản phẩm thẻ nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng cũng như nâng cao sức cạnh tranh của mình, tấm thẻ ATM của các Ngân hàng ngày càng có nhiều chức năng hơn làm cho thị trường thẻ thêm phong phú. Không chỉ đơn thuần để rút tiền, kiểm tra số dư tài khoản, thẻ ATM còn có thêm nhiều tiện ích như thanh toán phí điện nước, chuyển khoản và thanh toán khi mua hàng qua mạng.
Phát triển sản phẩm thẻ là việc các ngân hàng đưa ra thị trường các sản phẩm thẻ mới hoàn toàn cung cấp những tiện ích mới cho khách hàng hoặc ngân hàng vẫn tiếp tục cung cấp sản phẩm thẻ truyền thống nhưng được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại
Phát triển sản phẩm thẻ ngân hàng phải được phát triển theo hướng kết hợp hài hòa giữa lợi ích của khách hàng với lợi ích của ngân hàng và mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Đầu tư để phát triển sản phẩm thẻ yêu cầu vốn lớn trong khi môi trường kinh tế xã hội chưa phát triển, nhu cầu sử dụng dịch vụ chưa cao, đòi hỏi các ngân hàng phải
hướng tới lợi ích lâu dài, kết hợp hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng và của toàn bộ nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu tiên, cần phải chấp nhận chi phí đầu tư để mang đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tiên tiến với mức phí đảm bảo bù đắp được một phần vốn đầu tư nhưng đủ để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Phát triển sản phẩm thẻ phải được tiến hành đồng bộ với các dịch vụ ngân hàng khác, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và chủ động mở rộng các loại hình dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực của tổ chức tin dụng nhằm tạo nhiều tiện ích cho người sử dụng dịch vụ. Kinh doanh sản phẩm thẻ buộc các ngân hàng phải tuân theo những quy định chặt chẽ về các quy định và luật pháp của nước sở tại, các tổ chức thẻ quốc tế trong điều kiện bị ràng buộc bởi những hạn chế về nguồn lực. Các ngân hàng phải có định hướng rõ ràng về hoạt động kinh doanh thẻ, có đầy đủ nguồn lực cần thiết để phát triển sản phẩm thẻ
Ðể phát triển sản phẩm thẻ ngân hàng, bên cạnh sự nỗ lực của mỗi ngân hàng thương mại trong việc tăng vốn, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa và cá biệt hóa các sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh, cần phải tạo ra sự hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức đơn vị có liên quan; phải thực hiện quản lý thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ và tiện ích trong việc cung cấp dịch vụ tối ưu cho khách hàng. Có như vậy, sản phẩm thẻ ngân hàng mới có thể phát triển và nhanh chóng trở thành những dịch vụ được khách hàng và ngân hàng chấp nhận như một loại giao dịch không thể thiếu trong cuộc sống.
1.3.2. Sự cần thiết của việc phát triển sản phầm thẻ ngân hàng tại Việt Nam
Về phía ngân hàng, phát triển sản phẩm thẻ tạo ra một hình thức huy động vốn mới, tập trung lượng vốn tiềm tàng trong khu vực dân cư để đầu tư và phát triển. Hơn nữa, với sự phát triển của của công nghệ thông tin và sự hội nhập kinh tế Việt nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian gần đây càng thúc đẩy chúng ta phát triển phương thức kinh doanh thẻ, một hoạt động thanh toán hiện đại, văn minh và nhiều triển vọng với khả năng phổ cập rộng rãi trong cộng đồng dân cư.
Thực tế cho thấy, phát triển thẻ là phù hợp với chiến lược phát triển ngân hàng bán lẻ mà nhiều ngân hàng ở nước ta đang theo đuổi.