học tập. Sự tác động sư phạm này sẽ làm NL của HS thay đổi theo chiều hướng tích cực. Qua khảo sát bước đầu chúng tôi thấy rằng HS ở cấp THPT hầu hết đã được hình thành NLTH từ cấp học THCS, tuy nhiên NL của các em mới chỉ ở mức độ thấp, các em chưa được thực hành rèn luyện nhiều để phát triển NLTH ở mức cao hơn. Do vậy trong khuôn khổ của luận án các biện pháp sư phạm chúng tôi đề ra chủ yếu tập trung vào giai đoạn phát triển NLTH cho HS trong dạy học LS ở trường THPT.
* Thang năng lực: Để đánh giá việc phát triển NLTH LS cho HS, chúng tôi làm rõ các mức độ khác nhau của thang NL. NL của mỗi cá nhân là một phổ từ NL bậc thấp như nhận biết, tìm kiếm thông tin, tới NL bậc cao như khái quát hóa, phân tích. Theo nghiên cứu của OECD (2004) thì có ba thang NL từ thấp đến cao: tái tạo, kết nối, khái quát/ phản ánh.
Trong dạy học LS, để thuận lợi cho việc GV đánh giá và HS có thể tự đánh giá mức độ phát triển NL THLS chúng tôi đưa ra thang NL như sau:
Nhận biết: ở mức này yêu cầu HS ghi nhớ được sự kiện LS, kể tên nhân vật LS cụ thể, nêu diễn biến các cuộc kháng chiến, chiến dịch… Các KN TH chưa được thành thạo, cần có sự làm mẫu và hỗ trợ tự GV. Chưa thực sự yêu thích môn học.
Thông hiểu: Ở mức độ này đòi hỏi HS phải hiểu bản chất sự kiện, hiện tượng trên cơ sở đó biết khái quát, xâu chuỗi các sự kiện LS, lý giải được mối quan hệ giữa các sự kiện này với sự kiện khác. Các KN TH chưa thành thạo, cần
có sự
hướng dẫn hỗ
trợ
của GV. Đã bắt đầu có nhu cầu TH và tự
Có thể bạn quan tâm!
- Tài Liệu Giáo Dục Học, Tâm Lý Học
- Những Vấn Đề Các Tác Giả Trong Và Ngoài Nước Đã Giải Quyết
- Biểu Hiện Của Người Có Nlth
- Đặc Điểm Của Việc Dạy Học Lịch Sử Ở Trường Phổ Thông Có Ảnh Hưởng Tới Hoạt Động Tự Học Của Hs
- Biểu Đồ Tổng Hợp Ý Kiến Của Gv Về Đánh Giá Nlth Của Hs
- Khái Quát Chương Trình Sách Giáo Khoa Môn Lịch Sử Ở Trường Thpt
Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.
tìm hiểu
những kiến thức LS khi ở nhà.
Vận dụng ở cấp độ thấp: HS vượt qua cấp độ hiểu đơn thuần và có thể sử dụng các khái niệm của chủ đề trong các tình huống tương tự nhưng không hoàn toàn giống như tình huống đã gặp trên lớp. Việc vận dụng các KN TH LS một cách linh hoạt và mềm dẻo. Có hứng thú trong việc tìm hiểu và học hỏi bộ môn.
Vận dụng ở cấp độ cao: Ở mức độ này đòi hỏi trên cơ sở hiểu bản chất sự kiện, hiện tượng LS, yêu cầu HS đánh giá nhận xét, bày tỏ những chính kiến,
quan điểm, thái độ
về các vấn đề
LS, biết liên hệ
với thực tiễn và vận dụng
những kiến thức LS giải quyết những vấn đề trong cuộc sống thực tiễn, biết rút
ra những bài học kinh nghiệm. Các KN TH được vận dụng một cách thành thục thành kĩ xảo. Thái độ học tập với bộ môn thể hiện ở mức cao, yêu thích và say mê tự học môn LS.
2.1.2. Phân loại năng lực
NL chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. NL này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Mỗi NL chung cần góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng; giúp cho cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của một bối cảnh rộng lớn và phức tạp; chúng có thể không quan trọng với các chuyên gia nhưng rất quan trọng với tất cả mọi người. Có 8 NL sau đây được nhiều quốc gia lựa chọn và đề xuất: NL tự học; NL sáng tạo, tự chủ; NL giải quyết vấn đề; NL tự quản lý; NL hợp tác; NL giao tiếp; NL sử dụng ngôn ngữ; NL tính toán; NL công nghệ thông tin và truyền thông.
Các NL riêng của môn LS. Để xác định các NL chuyên biệt trong dạy học môn LS ở trường THPT chúng tôi theo cách tiếp cận là phải xác định các NL chung mà toàn bộ quá trình giáo dục ở trường PT đều phải hướng tới, sau đó từ nội dung, từ mục tiêu cụ thể của chương trình LS đề xuất các NL chuyên biệt cần phát triển cho HS trong dạy học LS ở trường THPT. Các NL riêng của bộ môn LS ở nhà trường THPT gồm có: NL tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS; NL tư duy là so sánh, phân tích, khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự kiện hiện tượng LS; NL Đánh giá các sự kiện, hiện tượng LS để rút ra bài học kinh nghiệm; NL giải quyết vấn đề thể hiện ở việc phát hiện và giải quyết vấn đề sau đó là trình bày vấn đề; NL thực hành bộ môn và vận dung kiến thức của bộ môn vào thực tiễn cuộc sống; NL tự học Lịch sử. Như vậy NLTH được coi là một trong những NL cốt lõi được đan xen vào các NL khác, cần phải rèn luyện cho HS trong quá trình dạy học nói chung dạy học LS nói riêng ở trường THPT hiện nay.
2.1.3. Các thành tố NLTH trong dạy học LS ở trường THPT
Theo chúng tôi, NLTHLS được thể hiện ở kiến thức về phương pháp tự học bộ môn, kĩ năng tự học và tinh thần thái độ học tập mà chúng tôi đã đề cập tới ở mục nội dung của NLTH Lịch sử. Tất cả những nội dung đó được biểu hiện ở các thành tố sau:
* Tự làm việc với các tài liệu học tập: Tài liệu học tập LS ở đây chúng tôi
tập trung chủ yếu vào SGK và các tài liệu tham khảo khác. SGK là tài liệu học tập cơ bản cho HS. Nội dung của SGK LS cung cấp cho HS hệ thống tri thức khoa học LS loài người và LS dân tộc, qua đó rèn luyện khả năng tư duy logic, NLTH, giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn cho HS. Có năng lực tự làm việc với SGK LS có nghĩa là HS hiểu được vai trò tác dụng cũng như cấu trúc của SGK. Từ những hiểu biết này trong quá trình dạy học GV sẽ giúp HS được rèn luyện KN làm việc với SGK như: tìm ý chính, khai thác nội dung thông qua kênh hình và trả lời các câu hỏi trong SGK.
Tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức cơ bản trong SGK. Đồng thời, nếu HS thói quen tự làm việc với tài liệu tham khảo sẽ giúp bản thân có ý thức tự đọc sách, tập dược nghiên cứu khoa học, lòng say mê, tự giác học tập, phát triển tư duy và vẫn dụng kiến thức vào thực tiễn. Để phát triển NLTH với tài liệu tham khảo cho HS, GV cần cung cấp tài liệu, hoặc giới thiệu địa chỉ tin cậy để HS tiếp cận với tài liệu, nêu yêu cầu, nội dung, mức độ, hướng dẫn cách đọc, ghi chép và trình bày tài liệu. Các tài liệu tham khảo bao gồm như: tài liệu LS, tài liệu gốc, Hồi kí, kí sự, tài liệu văn học, báo chí, sách lí luận, Internet… Các tài liệu này cung cấp, bổ sung kiến thức, có những khẳng định kết luận, đánh giá về sự kiện, hiện tượng LS, nhân vật LS. Tài liệu tham khảo được đối chiếu, so sánh sẽ có thuyết phục cao, có tác dụng giáo dục tư tưởng tình cảm, đồng thời bồi dưỡng năng lực làm việc với sách, bồi dưỡng lòng yêu thích môn học.
* Vận dụng các thao tác tư duy vào học tập LS: Đây là một năng lực rất quan trọng cần phát triển cho HS trong học tập LS ở trường THPT. Phát triển năng lực tư duy không chỉ giúp HS lĩnh hội và nắm vững các khái niệm, nêu quy luật mà còn giáo dục các em tính kiên trì trong học tập góp phần phát triển các năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Để có năng lực tư duy HS cần được được rèn luyện các hoạt động như: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa. Bên cạnh đó vận dụng các thao tác tư duy ở mức độ cao còn là khả năng đánh giá đúng các sự kiện hiện tượng và nhân vật LS trong quá trình học tập. Hiện nay chúng ta đang sống trong một “thế giới phẳng” do vậy có rất nhiều nguồn thông tin, nhiều tư liệu tham khảo, nhiều tư tưởng, nhiều quan niệm nếu không có khả năng tự đánh giá, không được định hướng đúng HS rất dễ hiểu nhầm hoặc hiểu sai một vấn đề
LS. Trang bị cho HS biết tự
đánh giá các sự
kiện hiện tượng và nhân vật LS
không những giúp các em có cái nhìn đúng đắn về sử học mà còn góp phần bồi dưỡng cho các em thái độ trân trọng đối với những giá trị LS, tinh thần yêu nước và biết đứng ra bảo vệ lẽ phải.
* Tự ghi chép khi nghe giảng: Khi học tập trên lớp, HS phải biết vận dụng nhiều thao tác như nghe giảng, ghi chép, suy nghĩ, trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận, hoạt động nhóm… Trong những hoạt động đó HS cần phải biết kết hợp các thao tác nghe, ghi chép và suy nghĩ trả lời câu hỏi. Phát triển được năng lực này sẽ giúp HS học tập hiệu quả hơn, linh hoạt hơn trong tư duy, giáo dục ý thức tự giác, kiên nhẫn và khả năng tư duy nhanh. Vì vậy trong quá trình nghe giảng hay nghe phần thuyết trình, HS phải biết chọn lọc kiến thức để ghi chép theo ý hiểu của cá nhân. Để việc lắng nghe có hiệu quả, HS phải luôn chú ý đến hoạt động của GV, phải theo sát các mục mà GV ghi trên bảng và kết hợp với SGK, trước khi nghe phải tìm hiểu qua nội dung (tên chủ đề, các câu hỏi, các nguồn tài liệu) chuẩn bị các công cụ ghi chép. Tốc độ nói sẽ nhanh hơn tốc độ ghi nên GV cần hướng dẫn HS cách ghi chép cho phù hợp, vừa ghi chép vừa suy nghĩ về vấn đề.Một số KN trong ghi chép như ghi thành các mục để dễ theo dõi, ghi những ý chính, ghi theo ý hiểu, dùng các chữ viết tắt và kí hiệu quy ước một cách nhất quán, có những nội dung có thể khái quát bằng sơ đồ, bảng biểu.
* Tự khai thác đồ dùng trực quan truyền thống và hiện đại: Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học nói chung dạy học môn LS nói riêng vừa là nguyên tắc, vừa là một phương pháp quan trọng. Biết và khai thác được kiến thức từ đồ dùng trực quan không chỉ là một nguồn kiến thức quan trọng nhằm cụ thể hóa, bổ sung cho kiến thức trong bài học LS mà còn góp phần tạo hứng thú học tập bộ môn cho HS. Thực tế cho thấy nếu chỉ học LS qua khai thác nội dung kênh chữ đơn thuần thì sẽ rất khô khan và nhàm chán, không đạt được hiệu quả cao. Vì vậy cần phải giúp cho HS THPT biết tự khai thác đồ dùng trực quan trong học tập LS. Có nhiều loại đồ dùng trực quan cần khai thác và sử dụng để phát triển NLTH cho HS. Theo chúng tôi những loại đồ dùng trực quan truyền thống như: tranh ảnh, phim tư liệu, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị; ngày này với sự phát triển của khoa học máy tính còn có thêm các đồ dùng trực quan hiện đại như: máy tính, internet, bản đồ động, các phần mềm thiết kế phim, thiết kế bảo tàng ào…
* Tự phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề: Trong quá trình dạy và học LS ở THPT việc phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề là rất quan trọng. Phát hiện vấn đề là trong quá trình học GV đặt HS vào các tình huống có vấn đề (đó là những tình huống có chứa đựng những mâu thuẫn giữa những điều đã biết với điều chưa biết, giữa những ý kiến trái ngược nhau hoặc khác với những điều HS đã biết) có tác dụng kích thích các hoạt động nhận thức cũng như các hoạt động xã hội của người học. HS tham gia giải quyết vấn đề theo những cách khác nhau dưới sự hướng dẫn của GV, qua đó HS lĩnh hội được tri thức mới cũng như nội dung bài học. Giải quyết các vấn đề là việc liên hệ kiến thức cũ và mới, phân tích rõ đặc điểm để tìm ra giải pháp nếu chưa thể tìm ra câu trả lời nên phản hồi lại với GV hoặc trao đổi với bạn bè. Vấn đề được đặt ra phải dựa vào kiến thức có liên quan đến nội dung bài học, khi đưa ra sẽ kích thích sự tò mò, hứng thú của HS. Vấn đề được xây dựng dựa vào một tình huống, sự việc, hiện tượng… có trong cuộc sống cụ thể. Bên trong đã chứa đựng những mâu thuẫn, không trừu tượng, thúc đẩy được động cơ học tập của người học. Vấn đề không quá phức tạp cũng không quá đơn giản, có nhiều cách thể hiện và giải quyết vấn đề, từ nhiều nguồn tài liệu tham khảo, các phương tiện thông tin hay từ sự hướng dẫn của GV. Việc phát hiện và tự giải quyết vấn đề còn được thể hiện qua việc trình bày và làm bài thi. Kiến thức LS càng được trình bày ngôn ngữ rõ ràng bao nhiêu, hành văn trong
sáng mạch lạc bao nhiêu thì càng tốt và càng dễ hiểu bấy nhiêu. Do vậy bên
cạnh việc trang bị kiến thức LS cho HS, trong quá trình dạy học cần trang bị cho HS biết trình bày và làm bài thi, vậy các em mới có thể chứng minh được khả năng học tập của mình, mới có thể biến được những kiến thức từ thầy cô thành kiến thức của bản thân thông qua cách trình bày của riêng mình.
* Tự kiểm tra đánh giá, ôn tập và củng cố kiến thức: Việc tự ôn tập củng cố kiến thức là công việc rất quan trọng, điều này giúp HS có được kiến thức cơ bản, tạo nền tảng cho việc phân tích, tư duy giải quyết các vấn đề LS. Thực hiện hoạt động tự ôn tập củng cố kiến thức chính là việc HS hoàn thành các bài tập do GV đưa ra trước và sau mỗi giờ học. Hình thức của việc tự ôn tập củng cố kiến thức chủ yếu diễn ra hai loại hình là TH ở nhà và TH trên lớp. Với việc tự ôn tập củng cố kiến thức ở nhà là việc HS chuẩn bị bài mới, củng cố kiến thức cuối giờ học; tự ôn tập củng cố kiến thức trên lớp (trong giờ học) là việc HS tự
biết thông kê, ôn tập lại kiến thức một cách logic như sử dụng các niên biểu, sơ đồ Grahp, sơ đồ tư duy, câu hỏi một phút… Tự kiểm tra đánh giá chính là quá trình người học tự thu thập, xử lý những thông tin về việc lĩnh hội kiến thức, hình thành KN và bồi dưỡng tư tưởng đạo đức. Hoạt động tự kiểm tra đánh giá thực chất là một trong các hoạt động TH. Phát triển cho HS khả năng tự kiểm tra đánh giá, tự ôn tập và củng cố kiến thức góp phần đổi mới PPDH theo hứng tích cực hóa người học, từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, nó có ý nghĩa trên cả ba mặt: kiến thức, KN và thái độ.
2.1.4. Các yếu tố tác động đến phát triển NLTH Lịch sử của học sinh
2.1.4.1. Mục tiêu của bộ môn
Phát triển NLTH môn LS cho HS ở trường THPT cần phải bám sát mục tiêu Giáo dục và mục tiêu của môn học. Mục tiêu giáo dục phổ thông của Đảng và Nhà nước ta là: Giúp HS củng cố và phát triển những kết quả giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề sống lao động.
hoặc đi vào cuộc
Mục tiêu môn học được xây dựng trên cơ sở mục tiêu của cấp học, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về sử học và giáo dục. Mục tiêu môn học LS còn căn cứ vào nội dung, đặc trưng của hiện thực LS và nhận thức LS, yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Mục tiêu môn học LS cụ thể hóa mục tiêu giáo dục chung cần phải đạt mục tiêu trên 3 mặt kiến thức, KN, thái độ:
Về kiến thức: cung cấp những kiến thức cơ bản, có hệ thống về LS phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người trên cơ sở củng cố, phát triển nội dung kiến thức LS đã học ở bậc THCS.
Về KN: rèn luyện KN tư duy: phân tích, tổng hợp, khái quát, xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng LS, nhân vật LS trong mối quan hệ về không gian, thời gian; rèn luyện các KN thực hành bộ môn như: lập bảng biểu, sơ đồ, quan sát tranh ảnh, sử dụng bản đồ… Qua đó sẽ bồi dưỡng năng lực phát hiện, đề xuất, giải quyết các vấn đề LS, hình thành NLTH, tự nghiên cứu các nguồn tài liệu khác nhau. Môn LS cũng như các môn học khác ở trường THPT còn hướng đến việc rèn luyện
KN vận dụng kiến thức đã học vào đời sống và định hướng phát triển các KN sống cho HS.
Về thái độ: hướng đến giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho độc lập tự do, văn minh và tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ; niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân tộc. Đồng thời giáo dục cho HS ý thức làm nghĩa vụ công dân, hình thành những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng.
Các mục tiêu chung như trên được thể hiện ở mục tiêu của chương trình
LS ở từng lớp học, là cơ sở xác định được mục tiêu cụ thể cho từng bài học
trong chương trình và định hướng cho việc dạy học đạt kết quả cao nhất. Việc hình thành và phát triển NLTH môn LS cho HS cần nhắm đến việc đạt mục tiêu chung cũng như mục tiêu cụ thể của từng chương, từng bài, góp phần vào việc giáo dục toàn diện HS.
2.1.4.2. Nội dung của bộ môn
Do đặc điểm của tri thức LS trong chương trình THPT là những sự kiện, hiện tượng diễn ra trong quá trình của LS nên mang tính quá khứ, chỉ xảy ra trong thời gian và không gian nhất định, không lặp lại, chúng ta cũng không thể khôi phục lại hay làm lại trong phòng thí nghiệm như các bộ môn khác. Khoa học LS là một khoa học thuộc xã hội và nhân văn, nghiên cứu về tiến trình LS cụ thể của mỗi nước, mỗi quốc gia do vậy kiến thức có đặc điểm là rất đa dạng, phong phú và trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, HS hiểu những kiến thức cơ bản của khoa học LS không chỉ là việc ghi nhớ sự kiện mà điều quan trọng là trên cơ sở nắm vững
sự kiện cơ bản của chương trình SGK, HS hiểu được bản chất của sự kiện,
hiện tượng và rút ra quy luật và bài học kinh nghiệm của quá khứ với hiện tại.
Kết quả
của việc dạy và học LS
ở trường THPT không chỉ
phụ
thuộc vào
phương pháp dạy của GV, mà còn phụ thuộc vào phương pháp học của HS, trong đó năng lực tự học có vai trò vô cùng quan trọng. Chính đặc điểm của kiến thức LS mang tính quá khứ, không lặp lại, tính thống nhất giữa sử và luận và thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn nó không những chi phối đến phương pháp tự học mà còn rất phù hợp với việc hình thành và phát triển NLTH cho HS. HS có thể dễ dàng tự tìm kiếm và đọc tư liệu, tự tìm hiểu những chủ đề mà mình quan
tâm, tự mở rộng thâm kiến thức ngoài SGK nếu trong quá trình học các em được GV trang bị cho kiến thức về phương pháp tự học và được thường xuyên rèn luyện các thao tác cũng như được cung cấp các công cụ để hỗ trợ cho việc tự học của bản thân.
2.1.4.3. Đặc điểm tâm lí, nhận thức LS của HS THPT
HS THPT nằm trong độ tuổi từ 15 đến 18, là giai đoạn phát triển gần với người trưởng thành, so với độ tuổi THCS các em có nhiều chuyển biến về mặt tâm sinh lý cũng như nhận thức. Ở lứa tuổi này các em cũng đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Do vậy thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển ý thức được sự chuyển biến trước ngưỡng cửa cuộc đời. Mặt khác, do sự phát triển hoàn thiện của nhận thức nên HS THPT đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được
học ở trường – đây chính là cơ sở cho việc tiến hành phát triển và rèn luyện
những năng lực cơ bản của cá nhân, trong đó có NLTH.
Quá trình nhận thức của HS cũng diễn ra theo quá trình nhận thức chung của loài người từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lí tính. Do vậy, trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn TH GV cần thực hiện theo tiến trình: Tạo biểu tượng LS, hình thành khái niệm, rút ra bài học, quy luật LS…, qua đó vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Ngoài ra, quá trình nhận thức LS của HS được tiến hành trên cơ sở của quy luật nhận thức LS nên mang những đặc điểm riêng: tính gián tiếp, được hướng dẫn và tính giáo dục.
2.1.4.4. Tổ chức hướng dẫn của Giáo viên
Theo các nhà khoa học giáo dục, PPDH là con đường, cách thức, biện pháp tổ chức hoạt động hợp tác, tương tác của GV và HS trong quá trình dạy học nhằm hướng dẫn HS hình thành tri thức LS, tư tưởng, phẩm chất đạo đức và phát triển năng lực tư duy, hành động cho HS. Phương pháp tự học LS thể hiện mối quan hệ giữa GV là người tổ chức, hướng dẫn về phương pháp học theo hướng phát huy tính tích cực, hình thành NLTH LS cho HS. Về phía HS, dưới sự hướng dẫn của GV, HS tích cực phát huy độc lập nhận thức và sáng tạo việc tiếp nhận kiến thức LS cơ bản và vận dụng vào thực tiễn. Như vậy phương pháp tự học LS là con đường, cách thức tổ chức hoạt động hợp tác, tương tác của GV và HS trong quá