vươn lên” [http://www.moj.gov.vn/vbpq/].
Trong tình hình hiện nay khi vấn đề đổi mới giáo dục đang được đặc biệt quan tâm thì việc phát triển phong trào TH trong các nhà trường lại càng có ý
nghĩa to lớn. Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 về đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong Luật giáo dục; khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, SGK hiện hành; tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, NLTH; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của HS[ http://moj.gov.vn/vbpq/Lists].
Trong quá trình giảng dạy, học tập phải phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ
và sáng tạo của HS, sinh viên, đề cao NLTH, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Những biện pháp đó nhằm thực hiện mục tiêu mà Đảng, nhà nước ta đã xác định và được khẳng định mới nhất tại Đại hội XI của Đảng "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế” [http://www.chinhphu.vn/]
Vấn đề TH còn được pháp chế trong Luật Giáo dục. Điều 40 luật Giáo dục sửa đổi năm 2009 nêu rõ: “Phương pháp đào tạo trình độ Cao đẳng, Đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, NLTH, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho
người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm,
[http://www.moj.gov.vn/vbpq/].
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển NLTH cho HS trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT thực nghiệm qua lớp 10 chương trình chuẩn - 1
- Phát triển NLTH cho HS trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT thực nghiệm qua lớp 10 chương trình chuẩn - 2
- F.kharlamop Trong Cuốn Sách “Phát Huy Tính Tích Cực Của Hs Như Thế
- Những Vấn Đề Các Tác Giả Trong Và Ngoài Nước Đã Giải Quyết
- Biểu Hiện Của Người Có Nlth
- Các Thành Tố Nlth Trong Dạy Học Ls Ở Trường Thpt
Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.
ứng dụng”
Phạm Văn Đồng, một trong những học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh đã tiếp nhận, thực hiện và làm phong phú tư tưởng, sự nghiệp giáo dục của Hồ Chí Minh. Trong lý luận và thực tiễn, ông chỉ rõ: phương pháp giáo dục không phải chỉ là những kinh nghiệm thủ thuật trong truyền thụ và tiếp thu kiến thức mà còn là con đường để người học có thể TH, tự nghiên cứu, không bắt buộc trí nhớ làm việc máy móc, chỉ biết ghi rồi nói lại. Ông là người có nhiều tâm huyết với công
cuộc đổi mới giáo dục, ông nhấn mạnh: Dạy người học suy nghĩ, tìm tòi, hiểu rộng hơn điều thầy nói, mở rộng tư duy và năng lực sáng tạo của người học.
1.2.2. Tài liệu Giáo dục học, tâm lý học
Trong cuốn “Giáo dục học”, tập 1 NXB Giáo dục (1987), tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt đã đề cập đến việc hướng dẫn dùng sách ở trên lớp, ở nhà và những yêu cầu cơ bản về phương pháp sử dụng SGK. Đây là một trong những phương pháp rất quan trọng trong việc rèn luyện cho HS NLTH.
Để phát triển vấn đề TH, Việt Nam đã thành lập trung tâm nghiên cứu và phát triển TH từ tháng 5/1997 do GS.VS Nguyễn cảnh Toàn làm giám đốc. Trung tâm được giao nhiệm vụ chủ yếu là: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
TH, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc thiết kế quá trình dạy TH nhằm
mục đích góp phần xây dựng một xã hội học tập ít tốn kém mà hiệu quả. Trung tâm đã tổ chức nhiều hội thảo, trong đó có hội thảo khoa học: “TH, tự đào tạo,
tư tưởng chiến lược của sự phát triển Giáo dục Việt Nam” ngày 15/1/1998.
Đồng thời tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu, trong đó có đề tài: “Nghiên cứu và phát triển TH” do GS Nguyễn Cảnh Toàn làm chủ nhiệm. Đề tài gồm có các vấn đề chính như: Chiến lược phát triển nội lực của người học, mô hình dạy TH, thiết kế bài học và thử nghiệm theo mô hình dạy TH.
Nguyễn Cảnh Toàn, một trong những tác giả có công nghiên cứu rất
nhiều về TH và làm thế nào để TH có hiệu quả, ông cùng một số tác giả xuất bản khá nhiều đầu sách viết về vấn đề này tiêu biểu như: “Quá trình dạy TH”, NXB Giáo dục 1996; “Học và dạy cách học”, NXB Đại học Sư phạm 2002; “Tự học như thế nào cho tốt”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009; “Học để đuổi kịp và vượt”, NXB Lao động năm 2010. Qua tham khảo các đầu sách trên chúng tôi thấy ông cho rằng: TH là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ như: quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến nó thành sở hữu của mình. Những tác phẩm trên như lời tâm sự, đúc rút kinh nghiệm về TH đồng thời cũng là những cẩm nang quý giá về nghiên cứu phương pháp TH.
Nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi nghiên cứu về vấn đề TH, trong báo cáo “Vấn đề KN và KN học tập”,
trường Đại học Sư
phạm Hà Nội năm 1992, đã đề
cập đến NLTH thông qua
việc tập trung rèn luyện KN, các tác giả chia KN TH thành 4 nhóm: nhóm KN định hướng, nhóm KN thiết kế (lập kế hoạch), nhóm KN thực hiện kế hoạch và nhóm KN kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Nguyễn Ngọc Quang, trong giáo trình “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm đại học” năm 2002, học viện Giáo dục cho rằng: Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực, chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của GV. Trong quan niệm này chúng ta thấy rằng học mà chỉ ghi chép những gì GV nói thì không phải là học một cách đúng nghĩa. Học là phải tích cực tự giác, tự lực nếu không thì quá trình học sẽ không có kết quả. Như vậy học là một hoạt động, trong đó quá trình TH đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động này.
Nguyễn Văn Đạo, có quan niệm về vấn đề TH như là công việc suốt cả cuộc đời mỗi người: ông cho rằng sở dĩ con người khác con vật ở chỗ là con người có khả năng tư duy, sáng tạo và khả năng này chỉ có thể đạt tới và phát huy trên nền kiến thức cơ bản được tạo ra thông qua quá trình học và TH. Ngay cả trong giai đoạn đi học việc TH luôn luôn có vai trò đặc biệt quan trọng, những người biết TH, năng động, sáng tạo trong quá trình đi học là những người có triển vọng và tiến xa trong cuộc đời sau này.
Trần Bá Hoành, trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa”, NXB Đại học sư phạm năm 2007, quan niệm: “Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp TH. nếu rèn luyện cho người học có phương pháp, KN, thói quen TH, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học và những tình huống mới, biết tự lực phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học hỏi, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người” [44,50]. Bên cạnh đó ông liệt kê các dấu hiệu của người TH như: người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới” NXB Giáo
dục (2008), Thái Duy Tuyên đã đề cập nhiều đến vấn đề TH. Tác giả đã dành hẳn chương VIII để nói về việc bồi dưỡng NLTH. Trong chương này tác giả đã đề cập đến các vấn đề chủ yếu: khái niệm TH, nội dung hoạt động TH, những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động TH, một số vấn đề cấp thiết như xây dựng động cơ học tập, làm việc với sách, nghe và ghi khi nghe giảng, đọc sách một dạng TH quan trọng và phổ biến, dạy trên lớp thế nào để HS có thể TH và biên soạn SGK theo hướng bồi dưỡng phương pháp TH. Theo tác giả, hình thức và đối tượng TH hết sức phong phú và đa dạng. Đối với mỗi người trong suốt cuộc
đời có lẽ
đều phải trải qua các dạng TH, mỗi người cần tự
tìm tòi rút kinh
nghiệm để xây dựng cho mình một phương pháp TH riêng và phù hợp đối với bản thân.
Bên cạnh đó rất nhiều nguồn tài liệu về lí luận dạy học, PPDH đề cập đến các kĩ thuật, các PPDH như: dạy học nhóm, dạy học dự án, dạy học hợp tác,
kĩ thuật bể cá, kĩ thuật tia chớp, khăn trải bàn, sơ đồ tư duy….. Đó là những
phương pháp và kĩ thuật dạy học đã và đang áp dụng thành công ở nhiều môn học, trong đó có môn LS. Với những phương pháp và kĩ thuật dạy học này, góp
phần thúc đẩy khả
năng học tập, tăng cường tính chủ
động, sáng tạo cho HS
điều này có ý nghĩa rất lớn vào việc hình thành và phát triển NLTH cho HS. Những nguồn tài liệu đó tiêu biểu như: Dạy học hiện đại lí luận, biện pháp, kĩ thuật của Nguyễn Thành Hưng, Lí luận dạy học kĩ thuật phương pháp và quá trình dạy học của Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier, Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học của Đỗ Ngọc Đạt, Dạy học và học đọc: sách tham khảo cho GV và người TH của Phạm Toàn và Nguyễn Trường……
Lương Việt Thái và nhóm nghiên cứu với đề tài Phát triển chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực người học, đề tài khoa học cấp Bộ Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2011, nhấn mạnh các PPDH nhằm phát triển toàn diện HS, đáp ứng được yêu cầu của đổi mới PPDH theo hướng tiếp cận năng lực người học trong đó có NLTH.
Ngoài các tài liệu trên, vấn đề rèn luyện nâng cao KN TH, NLTH cũng
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, khai thác vận dụng ở nhiều môn học
trong đó có một số hướng nghiên cứu sau:
1. Nghiên cứu thực trạng nhận thức về TH, NLTH của HS
2. Nghiên cứu biện pháp hình thành và rèn luyện KN TH, NLTH thông qua dạy các môn học cụ thể ở từng cấp học.
3. Nghiên cứu biện pháp quản lí hoạt động TH.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu cụ thể sau:
Nguyễn Cảnh Toàn, trong cuốn “Luận bàn về kinh nghiệm TH” đã chỉ ra rằng: để hướng dẫn TH phải viết tài liệu in ra và hướng dẫn người học TH. Tài liệu hướng dẫn phải vạch ra được kế hoạch học tập, phương pháp học. Việc hướng dẫn nên thể hiện ra bằng các câu hỏi hay bài tập nhỏ.
Tác giả Hoàng Hữu Niềm trong “Phương pháp hướng dẫn TH phần cơ sở di truyền học cho học viên các TTGDTX” đã nghiên cứu chức năng, mục đích, nội dung, yêu cầu, hình thức của phiếu TH và tài liệu hướng dẫn TH để biên soạn và sử dụng trong dạy học.
1.2.3. Tài liệu Giáo dục LS
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học Lịch sử” của Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị chủ biên, NXB Giáo dục (1980), các tác giả nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của hoạt động TH và đã đưa ra một số biện pháp rèn luyện NLTH cho HS ví dụ như: đọc SGK, sử dụng đồ dùng trực quan, tìm kiến tư liệu LS.
Giáo trình “Phương pháp dạy học Lịch sử” của Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị, NXB Giáo dục, 2001 quan niệm “TH trong quá trình học tập của HS là
việc các em độc lập hoàn thành những nhiệm vụ
được giao, với sự
giúp đỡ,
hướng dẫn, kiểm tra của GV. Việc TH bao gồm cả việc tập dượt nghiên cứu. Nó gây hứng thú học tập, sự cố gắng của HS và đóng góp phần nào cho xã hội” [ 62,167]. Các tác giả cho rằng trong việc TH, không chỉ chú ý đến việc HS tự đọc sách, tự làm việc mà còn phải chú trọng đến tinh thần, thái độ, ý chí, phương pháp làm việc của các em để nắm vững kiến thức và vận dụng kiến thức vào đời sống. Việc rèn luyện NLTH cho HS, trong giáo trình này đã đưa ra các hình thức như: hướng dẫn HS tự nhận thức trên lớp khi nghe GV giảng bài (biết tự điều chỉnh để nghe giảng, chọn lọc kiến thức để ghi chép, tự trả lời câu hỏi GV nêu
ra) và tự đọc SGK và các tài liệu học tập khác.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Lịch sử”, tập II (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002) tái bản có sửa chửa và bổ sung 2009, 2010, do Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi đã khẳng định: TH của HS là việc nắm vững kiến thức LS một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành thạo[65, 107]. Đó là quá trình đi từ biết đến hiểu. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn, đòi hỏi HS có những cố gắng nỗ lực khác nhau và có sự phát triển liên tục trong mối liên hệ nhân quả và logic để tiến tới những hiểu biết sâu sắc về LS nhân loại và dân tộc.
Cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS”, NXB Đại học Sư phạm năm 2005, do Trịnh Đình Tùng chủ biên, tác giả đã đi sâu trình bày nội dung, phương pháp TH và một số biện pháp cơ bản nâng cao chất lượng việc TH ở nhà và trên lớp nhằm phát triển năng lực nhận thức và tư duy cho HS.
Trong cuốn “Nhập môn Sử học”, NXB Đại học sư phạm năm 2006, do Phan Ngọc Liên chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề rèn luyện NLTH Lịch sử cho HS. Sau khi phân tích vai trò quan trọng của TH đối với việc đạt được mục tiêu đào tạo và trong phát triển tư duy sáng tạo của HS, các tác giả cho rằng việc TH có đặc điểm riêng về nội dung, phương pháp và phương thức tiến hành, trên cơ sở phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của HS. Việc TH thường được tiến hành trong ba hình thức chủ yếu là: TH trong quá trình nghe giảng trên lớp; TH ở nhà khi nghiên cứu SGK và tài liệu tham khảo và TH trong các hoạt động thực tế.
Tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học LS ở trường phổ thông”, NXB Đại học Sư phạm năm 2008, cho rằng: “TH là một vấn đề quan trọng, bởi vì nó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập” [31,111]. Tác giả quan niệm TH phải là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại. Sự nỗ lực đó của con người gao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lý, ý thức, thái độ, tình cảm. Tác giả khẳng định trong quá trình học, hoạt động TH giữ vai trò đặc biệt quan trọng
Trong cuốn “Rèn luyện KN nghiệp vụ sư phạm môn LS”, NXB Đại học Sư phạm, 2009,Nguyễn Thị Côi chủ biên, đưa ra vấn đề cần rèn luyện NLTH cho HS thông qua việc đào tạo, rèn luyện KN nghiệp vụ sư phạm cho GV LS. Các biện pháp mà nhóm tác giả đề xuất giúp GV có đầy đủ năng lực chuyên môn để rèn luyện cho HS NLTH.
Cuốn “Bồi dưỡng HS giỏi môn LS THPT”, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, Trịnh Đình Tùng chủ biên, tập hợp hệ thống các câu hỏi bài tập LS. Đây là một tài liệu rất tốt cho GV trong việc rèn luyện NLTH cho HS, đồng thời là tài liệu cho việc TH LS của HS rất có hiệu quả.
Trong tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT chuyên, môn Lịch sử (Tài liệu ban hành nội bộ, Hà nội 7 2012) của Bộ Giáo dục và đào tạo, đã dành nhiều nội dung cho việc phát triển NLTH trong dạy học môn LS ở trường THPT. Trong tài liệu này các tác giả đã khẳng định vai trò của việc rèn luyện NLTH và đưa ra các biện pháp rèn luyện NLTH môn LS cho HS chuyên như: Tạo hứng thú học tập bộ môn, giúp HS nắm vững kiến thức về phương pháp tự học và rèn luyện các kĩ năng tự học bộ môn.
Tác giả Nguyễn Thị Thế Bình trong cuốn “Phát triển kĩ năng tự học Lịch sử cho học sinh”, NXB Đại học sư phạm, quý III năm 2014, khi nghiên cứu về vấn đề này tác giả đã đưa ra hệ thống các KN TH LS và tiêu chí đánh giá. Đây chính là một trong những thành tố cơ bản của NLTH môn LS của HS ở trường THPT. Tác giả cho rằng hệ thống KN này cần phải được rèn luyện thường xuyên cho HS trong quá trình dạy học LS để trở nên thành thạo và vận dụng linh hoạt trong các nhiệm vụ học tập.
Hoàng Thanh Tú, trong cuốn “Phương pháp ôn tập Lịch sử ở trường
THPT một số
vấn đề
lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học quốc giá Hà Nội,
2012 đã xây dựng một số công cụ hỗ trợ việc tổ chức, hướng dẫn HS tự học môn LS. Tác giả cho rằng khi hướng dẫn HS tự học trên lớp hay ở nhà người
GV cần chỉ dẫn nhiệm vụ thật cụ thể và cung cấp các công cụ
hỗ trợ
như:
phiếu học tập, phiếu giao việc, hợp đồng học tập cùng các tiêu chí đánh giá để định hướng việc thực hiện nhiệm vụ học tập cho HS.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà nội, Nghiên cứu, giảng dạy LS trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển KN TH cho HS. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia, 10.2011.Phải nói rằng đây là một công trình tập hợp khá đầy đủ các nghiên cứu về TH của các nhà nghiên cứu Giáo dục LS như: Trịnh Đình Tùng với tham luận “Vấn đề hình thành KN TH cho HS trong dạy học LS ở trường phổ thông”; “Rèn luyện KN TH LS một yêu cầu quan trọng trong dạy học bộ môn ở trường phổ thông hiện nay” của Nguyễn Thị Côi; “Rèn luyện KN TH theo SGK LS cho HS” của Trần viết Thụ; “Vận dụng lí luận dạy học hiện đại để phát triển năng lực tư duy cho HS trong dạy học LS” của Lê Vinh Quốc… Trên cơ sở khẳng định sự cần thiết phải đổi mới PPDH, đáp ứng mục tiêu đào tạo trong thời đại mới, hội thảo đã mạnh dạn đề xuất các biện pháp phát triển KN TH cho HS trong dạy học LS ở trường phổ thông.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Các biện pháp phát triển KN TH cho HS trong quá
trình dạy học bộ
môn LS
ở trường Phổ
thông trung học”, chủ
nhiệm đề
tài
Nguyễn Thị Thế Bình và những người cùng tham gia đã nghiên cứu khá đầy đủ và có hệ thống về KN TH môn LS ở các hai cấp học THCS và THPT. Các tác giả đã đưa ra 10 nhóm KN TH môn LS cần phải rèn luyện cho HS và đề xuất các biện pháp để rèn luyện 10 KN này một cách hiệu quả. Đây có thể coi là một công trình nghiên cứu sâu và đầy đủ nhất về vấn đề rèn luyện KN TH môn LS cho HS từ trước tới nay.
1.2.4. Tạp chí, luận án, luận văn
Vấn đề TH cũng được bàn luận nhiều trong các tạp chí như: Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tạp chí Dạy và học ngày nay… Dưới đây là một số bài viết chúng tôi đã tìm hiểu theo nội dung chính: vai trò của NLTH, các biện pháp phát triển NLTH và cuối cùng là việc đánh giá NLTH.
Về vai trò của NLTH trong quá trình giáo dục đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, cụ thể được thể hiện trong các bài báo khoa học: “TH một chìa khóa vàng của giáo dục” – Tạp chí Nghiên cứu giáo dục 2/1998; Phạm Thị Lan Phượng có bài viết “Vai trò của người GV trong việc hình thành NLTH cho HS” – Tạp chí Dạy và học ngày nay số 4/2005; “Vai trò bồi dưỡng năng lực tự học cho