Ngoài ra, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bởi vậy, cần nghiên cứu, xem xét và điều chỉnh (nếu cần thiết) các đồng tiền trong rổ tiền tệ tính TGTT, do quan hệ thương mại, đầu tư, vay nợ giữa Việt Nam với các nước thay đổi qua từng năm. Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, khi bắt đầu chuyển sang thực hiện cơ chế TGTT (tháng 8/2015), rổ tiền tệ để tính tỷ giá đồng Nhân dân tệ (RMB) chỉ bao gồm 12 loại tiền tệ ngoại tệ, nhưng đến tháng 1/2017, số tiền tệ/ngoại tệ trong rổ để tính TGTT của RMB là 24 loại ngoại tệ.
Ba là, việc điều hành chính sách TGHĐ của Ngân hàng Nhà nước vẫn còn những khoảng trống, ví dụ như, việc quản lý ngoại hối còn lỏng lẻo, thị trường chợ đen vẫn ngoài tầm kiểm soát, vẫn còn một lượng lớn ngoại tệ, vàng nhập lậu và kiều hối lưu chuyển bên ngoài hệ thống ngân hàng. Bảo hiểm tỷ giá chưa được coi trọng, các nghiệp vụ phái sinh (xem Phụ lục 2: Các công cụ giao dịch trên thị trường ngoại hối) trong kinh doanh ngoại hối chưa phát triển đầy đủ, chỉ mới thực hiện nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, nghiệp vụ giao dịch tương lai còn ít thực hiện để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
Quá trình điều hành chính sách TGHĐ trong thời gian qua đã bộc lộ những vấn đề mà nguyên nhân của nó cần được xem xét, nghiên cứu để tìm ra các giải pháp xử lý phù hợp, đó là:
(1) Mục tiêu điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam chưa rò ràng
Việc đặt mục tiêu điều hành tỷ giá để ổn định giá trị đồng tiền, hàm nghĩa ổn định giá trị đối nội (lạm phát được kiểm soát) và ổn định giá trị đối ngoại (ổn định TGHĐ) vẫn còn chứa đựng mâu thuẫn: Thứ nhất, Luật Ngân hàng Nhà nước quy định
―tỷ giá là một công cụ của chính sách tiền tệ” thì tỷ giá không thể là một mục tiêu của chính sách, nếu để mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền sẽ khó khăn trong việc điều hành CSTT trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài luân chuyển nhanh và mạnh hơn trong quá trình tự do hóa; Thứ hai, trong bối cảnh thị trường ngoại tệ có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nền kinh tế có độ mở cửa cao, các giao dịch vốn đã từng bước được tự do hóa thì việc công bố chính sách của Chính phủ về việc cố định biên độ hoặc một mức tăng hoặc giảm TGHĐ sẽ khuyến khích hoạt động đầu cơ và trong trường hợp thị trường thế giới biến động phức tạp, Chính phủ không duy trì được chính sách như công bố sẽ ảnh hưởng phần nào tới lòng tin của thị trường.
Chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá chủ yếu còn mang tính ngắn hạn. Mặc dù có các Kế hoạch hoạt động ngân hàng 5 năm, Chiến lược phát triển ngân hàng tầm nhìn 10
năm, nhưng các định hướng dài hạn có tính chiến lược thực sự về điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá vẫn chưa được xây dựng một cách rò ràng, khoa học trên cơ sở các phân tích định lượng do hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chưa hoàn thiện.
Việt Nam chưa xây dựng được mục tiêu điều hành tỷ giá hối đoái trong dài hạn với những tính toán cụ thể về sự đánh đổi giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng và lạm phát, giữa khuyến khích xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và vấn đề ổn định thu nhập. Bộ ba cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái bao gồm chính sách quản lý luồng vốn ra, luồng vốn vào, chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tiền tệ dường như cũng là một ―Bộ ba bất khả thi‖, do các mục tiêu giữa các chính sách này đôi khi còn thiếu nhất quán, thậm chí trái ngược nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Biến Động Lãi Suất Và Tỷ Giá Hối Đoái , 2008 -2013
- Tỷ Giá Hối Đoái Vnd So Với Một Số Đồng Tiền Chủ Chốt, 2016-2019
- Can Thiệp Trên Thị Trường Ngoại Hối Của Việt Nam, 2016-2020
- Bối Cảnh Kinh Tế Và Định Hướng Điều Hành Cơ Chế Tỷ Giá Hối Đoái Của Việt Nam
- Nhóm Giải Pháp Xác Định Và Tính Tỷ Giá Trung Tâm
- Đối Với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
(2) Các công cụ CSTT và các công cụ của chính sách tỷ giá chưa đa dạng. Hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối chưa hiệu quả
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng mở cửa, Việt Nam còn thiếu các công cụ để hoàn thành các mục tiêu của chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá và đôi khi các mục tiêu mâu thuẫn nhau như: kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định tỷ giá, và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, bao gồm thông qua cả việc phá giá đồng tiền. Bên cạnh đó, có một số yếu tố cản trở quá trình truyền tải chính sách tiền tệ và tác động tới mức độ biến động của tỷ giá hối đoái, bao gồm mức độ đô la hóa cao và tình trạng vàng hóa. Do vậy, vẫn còn tình trạng lúng túng trong công tác điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá.
Trước năm 2011, hoạt động can thiệp của NHNN chủ yếu là can thiệp trực tiếp thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường hoặc can thiệp điều chỉnh tỷ giá hoặc biên độ tỷ giá. Tuy nhiên, hiệu quả can thiệp còn hạn chế, nhiều lúc thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Các biện pháp can thiệp chưa được triển khai quyết liệt, đồng bộ nên chưa giải quyết triệt để tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại tệ, sau khi NHNN can thiệp được một thời gian, thị trường ngoại hối lại có biến động trở lại. Nguyên nhân do hệ thống thông tin còn bất cập, chưa có số liệu đầy đủ, kịp thời để theo dòi, đánh giá, giám sát hoạt động thị trường; khả năng dự báo, xác định nguyên nhân gây biến động thị trường còn hạn chế. Quy mô dự trữ chưa đủ lớn để đảm bảo cho NHNN có thể can thiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường. Trong khi đó, cơ chế điều hành tỷ giá chưa thực sự linh hoạt, chủ yếu là giảm giá đồng Việt Nam để hỗ trợ xuất khẩu. Hình thức can thiệp đôi khi còn cứng nhắc, chưa đồng bộ. Can thiệp chủ yếu dựa trên trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng (TCTD), can thiệp mặt hàng (hỗ trợ nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu), can thiệp
thông qua một số TCTD... Liều lượng và thời điểm can thiệp đôi khi còn chưa hợp lý, can thiệp từng lần với số lượng không đủ lớn, chưa triệt để, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách vĩ mô (chẳng hạn, giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa), chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành. Lòng tin của thị trường vào khả năng can thiệp của Ngân hàng Nhà nước chưa cao. Công tác thông tin, truyền thông định hướng chính sách chưa được chú trọng. Thị trường luôn kỳ vọng vào việc NHNN điều chỉnh tỷ giá dẫn đến tình trạng găm giữ ngoại tệ.
Từ Quý 4 năm 2011, cách thức can thiệp của NHNN có những bước thay đổi căn bản. Ngân hàng Nhà nước đã kết hợp hình thức can thiệp trực tiếp với can thiệp gián tiếp. Biện pháp can thiệp linh hoạt, đồng bộ, phối hợp điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối với điều hành lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ. Công tác định hướng chính sách, thông tin, truyền thông được chú trọng. Nhờ đó, thị trường ngoại hối diễn biến tương đối ổn định.
Vào tháng 1/2020, Ngân hàng Nhà nước tuyên bố thay đổi cách thức can thiệp trên thị trường ngoại hối. Thay vì giao dịch trên thị trường giao ngay (Spot Market), NHNN sẽ giao dịch trên thị trường kỳ hạn (Forward Market) 6 tháng đối với ngoại tệ. Hơn nữa, vào tháng 2/2020, NHNN tuyên bố là sẽ chỉ can thiệp hàng tuần thông qua giao dịch kỳ hạn.
(3) Sự phát triển của thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Số lượng của các loại hình giao dịch trên thị trường ngoại tệ còn quá ít và còn bị ràng buộc quá nhiều những điều khoản mang tính chất hành chính. Tất cả những điều này đã làm hạn chế tính linh hoạt của thị trường ngoại tệ. Các quy định quản lý quá chặt chẽ tới mức không cần thiết và không nhất quán với nhau. Mặt khác, đồng Việt Nam chưa có khả năng chuyển đổi. Hệ thống thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, chủ yếu vẫn là thanh toán bằng tiền mặt. Việc sử dụng đồng USD trong thanh toán quốc tế và ngay cả thanh toán trong nước vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn.
(4) Việc thực hiện các quy định pháp luật và xử phạt không nghiêm những vi phạm xảy ra trên thực tế, từ đó đã làm giảm hiệu lực các biện pháp hỗ trợ cho các biện pháp phối hợp khi thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá. Điều này được thể hiện qua tình trạng đô la hoá nền kinh tế thông qua việc thanh toán, báo giá, quảng cáo bằng ngoại tệ tràn lan và tình trạng kinh doanh ngoại tệ trái phép cũng như buôn lậu vẫn đang diễn biến phức tạp trong nền kinh tế.
(5) Dự trữ ngoại hối mới ở mức khiêm tốn
Dự trữ ngoại hối có tác động tích cực, hỗ trợ cải thiện mức độ độc lập tiền tệ và
ổn định tỷ giá. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã được tăng cường trong vài năm gần đây (năm 2017, DTNH của Việt Nam đạt 53 tỷ USD; năm 2018 đạt 63,5 tỷ USD; năm 2019 là 80 tỷ USD, năm 2020: 95 tỷ USD), nhưng DTNH của Việt Nam mới chỉ đáp ứng ở mức khiêm tốn mức DTNH đầy đủ theo chuẩn mực truyền thống của quốc tế (tính đến tháng 9/2020, tổng dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt 88,9 tỷ USD, tương đương 3,6 tháng nhập khẩu, đạt 108% mức dự trữ đầy đủ (theo cách tính của IMF đối với các quốc gia có chế độ tỷ giá hối đoái cố định)- trong khi theo khuyến nghị về mức đầy đủ DTNH của IMF là 100-150%. Nói chung, DTNH của Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác, điều này cũng gây sức ép lên việc điều hành cơ chế tỷ giá.
(6) Tình trạng đô la hóa, vàng hóa. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực đưa ra các chính sách để giảm mức độ đô la hóa nền kinh tế, bao gồm việc bắt buộc sử dụng VND trong tất cả các giao dịch trong nước, cũng như quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ bằng 0% tại hệ thống NHTM trong nước. Những chính sách này đem lại thành công nhất định khi tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong ngân hàng giảm từ 15% năm 2013 xuống còn 11% năm 20191. Tuy nhiên, vẫn còn một lượng đô la đáng kể ở bên ngoài hệ thống
ngân hàng. Do hậu quả của những năm tháng bị lạm phát cao, nên các doanh nghiệp và người dân vẫn có tâm lý găm giữ ngoại tệ, do vậy, đôi khi tạo ra sự ùn tắc giả tạo trong chu chuyển vốn cũng như tạo ra nhu cầu ảo về ngoại tệ. Cùng với ngoại tệ, vàng vẫn là thước đo quan trọng để trao đổi và phòng ngừa lạm phát và biến động tiền tệ. Trước đây, vàng đóng vai trò trung tâm trong cơ cấu đầu tư và tiết kiệm của người Việt Nam. Điều đó khiến cho NHNN nhiều lúc vẫn phải can thiệp bằng các biện pháp hành chính trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái.
Tiểu kết Chương 3
Luận án đã đi sâu phân tích thực trạng cơ chế điều hành TGHĐ ở Việt Nam qua các giai đoạn (2007-2020) trong điều kiện hội nhập quốc tế. Cụ thể, luận án hệ thống hóa khuôn khổ pháp lý về quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành TGHĐ ở Việt Nam. Luận án cũng làm rò cách thức NHNN điều hành tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 2007-2020. Đặc biệt, luận án đi sâu phân tích diễn biến, những đặc trưng và những vấn đề đặt ra trong cơ chế điều hành TGHĐ trong giai đoạn 2007-2020 gắn với mục tiêu của CSTT và diễn biến kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Một trong những nội dung được chú trọng trong Chương 3 là cơ chế điều hành TGHĐ mới dựa trên tỷ giá
1 Nguồn: US Treasury Department, Report to Congress (12/2020)
trung tâm (thực hiện từ năm 2016 đến nay) trong bối cảnh thế giới đầy biến động (Fed liên tục điều chỉnh lãi suất; chiến tranh thương mại Mỹ -Trung; đại dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID - 19). Luận án đưa ra những đánh giá ban đầu sau 5 năm thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá mới ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế, cũng như nguyên nhân của các hạn chế đó trong công tác điều hành chính sách TGHĐ của Ngân hàng Nhà nước. Một trong những điểm mới của Luận án là đã đi sâu phân tích một trong những nội dung thu hút sự quan tâm nhất của Chính phủ và các cơ quan quản lý tiền tệ, đó là việc Việt Nam bị gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ (theo phán quyết của Mỹ vào tháng 12/2020). Trên cơ sở phân tích 3 tiêu chí của Bộ Tài chính Mỹ, Luận án chỉ rò lý do Việt Nam bị gắn mác thao túng tiền tệ và vấn đề đặt ra đối với việc cơ chế điều hành TGHĐ của Ngân hàng Nhà nước (cơ chế điều hành TGHĐ của Việt Nam cần linh hoạt hơn; vấn đề can thiệp trên thị trường ngoại hối của NHNN; mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam so với chuẩn quốc tế).
Những phân tích trên là cơ sở để Luận án đưa ra các giải pháp và kiến nghị chính sách hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng trong Chương 4.
Chương 4
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
4.1. Xu hướng hệ thống tài chính, tiền tệ thế giới và Việt Nam đến năm 2030
4.1.1. Xu hướng của hệ thống tài chính, tiền tệ thế giới đến năm 2030
Cho đến nay, cộng đồng thế giới đều đồng thuận về các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Liên hợp Quốc (UN), đây là một phần của Chương trình phát triển đến năm 2030 với nền tảng là phát triển bền vững. Trong khi đó, hệ thống tài chính và tiền tệ toàn cầu đang có những chuyển đổi đáng kể1, đó là: (i) Các cực kinh tế mới nổi lên; (ii) Sức mạnh hoặc quyền lực đang dịch chuyển từ các định chế công sang khu vực phi nhà nước; (iii) Sự gia tăng những thay đổi về công nghệ đã phá vỡ các mô hình kinh doanh hiện hành, đe dọa tương lai của một số việc làm nhưng cũng cung cấp các cơ hội mới mà một thập kỷ trước không thể tưởng tượng ra; và (iv) Sự dịch chuyển về nhân khẩu học.
Để đương đầu với những thách thức, hệ thống tài chính toàn cầu sẽ cân bằng bởi hai xu hướng dường như là đối lập nhau, đó là: xu hướng phi tập trung (decentralization) và xu hướng gia tăng hội nhập. Xu hướng phi tập trung hóa của hệ thống tài chính-tiền tệ toàn cầu thể hiện qua việc: (i) Đồng đô la Mỹ (USD) mất dần thế độc tôn, trong khi các đồng tiền khác như Euro, Nhân dân tệ (RMB) có vai trò quan trọng bên cạnh đồng USD và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về đồng tiền dự trữ và tài sản an toàn của thế giới; (ii) Hệ thống tài chính toàn cầu giảm dần việc sử dụng tiền giấy. Tiền điện tử được phát hành bởi tư nhân hoặc ngân hàng trung ương sẽ tác động đến việc tạo lập chính sách tài chính và tiền tệ. Tại một số quốc gia, lĩnh vực fintech (các công ty công nghệ tài chính) tăng trưởng nhanh chóng đã cung cấp các dịch vụ tài chính đặc biệt sử dụng một loạt các sáng kiến số (digital innovation), bao gồm các dịch vụ cung cấp tín dụng và thanh toán cho các hộ gia đình và doanh nghiệp thông qua các sàn trực tuyến (online platforms) [210]2. Chấp nhận và sử dụng tiền kỹ thuật số (crypto-currencies) sẽ tiếp tục lan rộng. Những tiến triển này sẽ đến các thị trường, các thể chế, và cơ sở hạ tầng trong một thế giới liên kết, và đây sẽ là thách thức lớn đối với việc điều hành chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tỷ giá và sự ổn định tài chính; và (iii) Các mô hình kinh doanh ngân hàng truyền thống sẽ đối đầu với
1 Nguồn: World Economic Forum (2018), The Global Financial and Monetary System in 2030.
2 Chẳng hạn, Cho vay ngang hàng (P2P lending) là khoản cho vay trực tiếp không được đảm bảo giữa người cho vay và người vay thông qua sàn trực tuyến mà không cần sự có mặt trung gian của bất kỳ tổ chức tài chính nào.
những thách thức mới. Trong bối cảnh phát triển mạnh của công nghệ thông tin và viễn thông, các công ty công nghệ tài chính (Fintech) tham gia ngày càng nhiều vào thị trường kéo theo những thay đổi trong cách tiếp cận về phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính, ngân hàng và kênh phân phối mới. Qua đó, Fintech sẽ làm thay đổi các ngân hàng truyền thống và các công ty bảo hiểm, cùng với sự xuất hiện của các tổ chức phi
tập trung sẵn sàng cung cấp thanh khoản và các dịch vụ tài chính mới thông qua một phương thức phi trung gian1.
Một xu hướng khác của hệ thống tài chính-tiền tệ toàn cầu đó là hội nhập sâu rộng, thể hiện qua việc: (1) Gia tăng hội nhập tài chính toàn cầu. Được thúc đẩy bởi sự dịch chuyển về nhân khẩu học và công nghệ mới, hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu được thay thế bởi một thời kỳ hoàng kim về liên kết quốc tế về tài chính toàn cầu, thúc đẩy một mạng lưới chặt chẽ giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp và các cá nhân tại các nước phát triển và đang phát triển. Sự bất ổn về chính trị có thể gây ra những rủi ro đối với sự liên kết quốc tế trong phạm vi toàn cầu thông qua thiết lập các rào cản thương mại cao hơn hoặc chủ nghĩa bảo hộ tài chính lớn hơn; (2) Tài chính toàn diện (Financial Inclusion) đang dần trở thành một xu thế phổ biến và hiện đã được triển khai ở hơn 70 quốc gia trên thế giới; và (3) Tiếp cận đa chiều đối với các dịch vụ tài chính: Tài chính toàn diện và tiếp cận các dịch vụ tài chính đa chiều đã trở thành hiện thực. Sự phát triển của các công nghệ mới và việc giảm trung gian thông qua các ngân hàng truyền thống sẽ đem lại cho tất cả những người trưởng thành dễ dàng tiếp cận với các tài khoản giao dịch nhằm cất giữ, gửi và nhận thanh toán.
Tuy nhiên, một hệ thống tài chính toàn cầu phi tập trung hơn nhưng lại liên kết quốc tế chặt chẽ hơn có thể sẽ làm cho rủi ro tăng lên. Việc quản lý rủi ro đòi hỏi phải phát triển một cơ sở hạ tầng hỗ trợ tổng thể, bao gồm các quy định hiệu quả và các công cụ quản lý khủng hoảng mới.
Có thể nói, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế sâu rộng tiếp tục là xu thế không thể đảo ngược. Viễn cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng sẽ chịu ảnh hưởng bởi xu thế hướng tới các hiệp định thương mại đa phương và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với mức độ tự do hóa cao hơn, cam kết rộng hơn. Theo đó, cấu trúc luồng vốn đầu tư quốc tế sẽ có nhiều thay đổi, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các đối tác lớn trên toàn cầu có xu hướng giảm cùng với sự cạnh tranh trong việc thu hút FDI ngày càng gay gắt giữa các quốc gia. Sự gia tăng vốn đầu tư gián tiếp và vay nợ nước ngoài cùng với lộ trình tự do hoá tài
1 Nguồn: Tô Thị Ánh Dương (2019), Xu hướng hệ thống tài chính-tiền tệ toàn cầu và Việt Nam đến năm 2030
chính theo cam kết, tạo ra thách thức đáng kể đối với sự ổn định tài chính-tiền tệ. Hội nhập quốc tế sâu rộng cũng làm tăng tính liên thông giữa thị trường tài chính trong nước với thị trường tài chính quốc tế, qua đó, một mặt, gia tăng động lực cạnh tranh để phát triển, mặt khác, cũng làm tăng tác động/rủi ro từ bên ngoài vào thị trường trong nước (chẳng hạn tạo sức ép lên tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ điều chỉnh lãi suất; căng thẳng thương mại Mỹ-Trung…).
Đổi mới công nghệ được thúc đẩy và hỗ trợ bởi cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (CMCN 4.0) sẽ thay đổi phương thức quản trị, điều hành của NHTW cũng như hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Đối với hoạt động điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các lợi thế về công nghệ giúp NHNN đẩy nhanh được tiến trình hiện đại hóa, chuyển đổi các dịch vụ cung ứng từ chủ yếu xử lý thủ công sang môi trường điện tử. Bên cạnh đó, nhờ vào công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và khối chuỗi (Blockchain), việc phân tích và quản lý dữ liệu sẽ nhanh, chính xác, an toàn và minh bạch hơn, tạo thuận lợi cho công tác dự báo, thống kê và hoạt động của thị trường tài chính-tiền tệ, cũng như hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tiền kỹ thuật số ngày càng được sử dụng và chấp nhận rộng rãi, các hoạt động Fintech, các hoạt động tài chính phi ngân hàng/ ngân hàng ngầm ngày càng phát triển, việc điều hành CSTT, chính sách tỷ giá của NHTW đứng trước những thách thức không hề nhỏ, đặc biệt trong việc kiểm soát dòng tiền, kiểm soát rủi ro trong thanh toán và đảm bảo an toàn hoạt động của toàn hệ thống.
Những tiến bộ từ cuộc CMCN 4.0 là nền tảng giúp các ngân hàng trong nước phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới nếu kịp thời nắm bắt, thích nghi và thay đổi kịp với xu thế công nghệ mới. Ảnh hưởng của CMCN 4.0 mà cụ thể là Internet di động, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, Internet vạn vật (IoT), công nghệ chuỗi khối sẽ giúp các ngân hàng trong nước định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kỹ thuật số thông minh trong tương lai. Sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số bên cạnh đó cũng kéo theo sự gia tăng những lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm công nghệ cao, tin tặc (hackers) hoạt động ngày càng thường xuyên. Bên cạnh đó, việc phát triển các kênh phân phối mới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang tính tích hợp cao cũng tạo nên những quan ngại về an ninh trong các giao dịch tài chính điện tử, bao gồm cả các giao dịch trên thị trường tiền tệ. bởi vậy, công tác quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro hoạt động/tác nghiệp sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn hơn nhiều.