Phát Triển Giáo Dục, Đào Tạo Không Ngừng Nâng Cao Chất Lượng Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng

130


doanh nghiệp. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức trả lương, trả công hợp lý, vừa khuyến khích được người lao động vừa đảm bảo các mục tiêu, điều kiện kinh doanh, phù hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như đảm bảo các quy định của pháp luật đối với người lao động về tiền công, tiền lương. Hình thức trả lương hiện nay là theo kết quả công việc được giao, hoặc trả theo ngày công, theo sản phẩm đây là hình thức phù hợp, gắn với kết quả kinh doanh của các DNDL. Tiền lương sẽ trở thành động lực thúc đẩy người lao động phấn đấu theo các mục tiêu của doanh nghiệp. Hoàn thiện chính sách tiền lương trong DNDL, cơ quan quản lý nhà nước làm cho tiền lương thực sự là đòn bẩy kích thích người lao động NDL làm việc một cách có hiệu quả nhất là vô cùng cần thiết.

- Xây dựng và hoàn thiện chế độ tiền thưởng (như vượt năng suất, sáng kiến, đổi mới SPDL…) theo tiêu chuẩn rõ ràng, đảm bảo tính kịp thời, dân chủ, công khai, khách quan, tránh bình quân chủ nghĩa, hiện tượng rườm rà trong các khâu xét duyệt làm ảnh hưởng tâm lý chán nản của người lao động, làm giảm ý nghĩa động viên, khuyến khích. Như vậy, ngoài khoản tiền thưởng thường xuyên từ quỹ lương đối với các DNDL cần linh hoạt áp dụng thêm nhiều hình thức tiền thưởng khác nhằm khuyến khích, động viên, kích thích kịp thời người lao động. Mức thưởng xác định bằng tỷ lệ phần trăm trên doanh thu từ khách trong quá trình tiêu dùng của các dịch vụ của DNDL. Ngoài ra, DNDL cũng nên duy trì các hình thức thưởng khác cho người lao động như thưởng cuối năm, cuối quý, thưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, thưởng sáng kiến, thưởng tiết kiệm... bởi chế độ, chính sách tiền thưởng cũng có tác động đến động cơ làm việc và NSLĐ của người lao động ở doanh nghiệp.

- Thực hiện tốt chế độ chính sách xã hội đối với người lao động như Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, đảm bảo an toàn lao động và kỹ luật lao động tại doanh nghiệp nhằm khuyến khích người lao động thực hiện tốt nhiệm vụ công việc (có sáng kiến, hoàn thành công việc vượt kế hoạch, có ý thức xây dựng tập thể…). Ngoài ra, doanh nghiệp nên xây dựng chính sách động viên về tinh thần đối với NLDL như các danh hiệu khen thưởng, thăm hỏi, động viên tinh thần của lãnh đạo DN đối với cá nhân và gia đình người lao động nhân dịp hiếu hỉ, sinh nhật, ngày lễ tết, ốm đau, sinh đẻ, tai nạn…Ngoài ra, doanh nghiệp cần có chế độ, chính sách trợ cấp khó khăn, trợ cấp đào tạo cũng là những đãi ngộ có ý nghĩa tích cực không chỉ

131


kích thích người lao động làm việc tốt hơn mà còn làm cho họ gắn bó với doanh nghiệp. Thực tế, hiện nay một số bộ phận người lao động có trình độ cao lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế đối với họ không phải là tất cả. Mà có khi đối với họ niềm đam mê, lợi ích tinh thần, lòng tự hào dân tộc và nhu cầu tự khẳng định nhân cách, tính linh hoạt, khả năng đổi mới công việc muốn được thừa nhận, tôn vinh,... lại là điều quan trọng nhất đối với họ. Như vậy, các hình thức đãi ngộ khác trong doanh nghiệp như tiền thưởng, các chính sách đãi ngộ khác đối với người lao động phải đảm bảo đáp ứng cả về vật chất lẫn tinh thần.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ nhập cư đối với nhân lực du lịch: Thực tế hiện nay NLDL ở các địa phương khác đến làm việc tại tại thành phố còn hạn chế, với hơn 34% NLDL từ các địa phương khác, sinh viên nước ngoài, lao động nước ngoài được doanh nghiệp tuyển dụng với tỷ lệ thấp và được đánh giá tốt khoảng 25% [80]. Vì vậy, trong thời gian tới để khắc phục được hạn chế đó và thu hút được NLDL đáp ứng yêu cầu thiết nghĩ thành phố cần thành lập Trung tâm tư vấn và hỗ trợ lao động nhập cư, thông qua trung tâm sẽ cung cấp đầy đủ thông tin, đồng thời tư vấn cho lao động nhập cư theo đúng pháp luật và các vấn đề liên quan đến đời sống việc làm của các DNDL; Tổ chức bồi dưỡng kiến thức về pháp luật lao động; tập huấn các kỹ năng tìm việc, phỏng vấn, tiếp cận thông tin thị trường lao động; tư vấn và định hướng nghề nghiệp;... Phối hợp với chính quyền địa phương có thực hiện các biện pháp hỗ trợ và ổn định đời sống cho lao động nhập cư. Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với lao động nhập cư, nên quan niệm việc đăng ký hộ khẩu như là công cụ phục vụ cho công tác quản lý xã hội, chứ không phải là cơ sở để giải quyết các chính sách xã hội. Vì vậy, cần tạo điều kiện cho lao động nhập cư được đăng ký hộ khẩu, tạm trú tạm vắng và được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản miễn phí hoặc giá cả hợp lý, cũng như dễ dàng trong việc đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh và đi học cho con em của họ.

Bốn là, tiếp tục xây dựng, thực hiện chính sách thu hút nhân lực du lịch chất lượng cao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

Hiện nay, người lao động được tiếp cận với rất nhiều kênh thông tin khác nhau về lao động việc làm, về tuyển dụng nhưng các thông tin thị trường lao động ở các tỉnh miền Trung nói chung và thành phố Đà Nẵng còn sơ khai, chưa có một hệ

132

Phát triển nhân lực du lịch ở thành phố Đà Nẵng - 18


thống thông tin hoàn chỉnh chưa đạt tiêu chuẩn thị trường lao động du lịch hiện đại. Chính điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp ở các lĩnh vực lưu trú, lữ hành (HDVDL), nhà hàng, các CSĐT NLDL rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn cung lao động có trình độ chuyên môn cao về nghiệp vụ du lịch. Vì vậy, trong thời gian tới thành phố cần thực hiện một số nội dung sau:

- Thành phố nên tiếp tục có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thu hút nhân tài, trọng dụng, đãi ngộ để giữ chân người giỏi từ các tỉnh, thành phố trên địa bàn cả nước và các quốc gia khác trên thế giới đến công tác tại thành phố Đà Nẵng một cách công khai thông qua danh mục các ngành ưu tiên như cán bộ QLDL, giám đốc, quản lý bộ phận khách sạn, nhà hàng, công ty lữ hành có chuyên NDL, giỏi ngoại ngữ... đặc biệt là đội ngũ HDVDL có trình độ đào tạo đại học trong và ngoài nước đúng chuyên NDL.

- Thành phố Đà Nẵng cần xây dựng kế hoạch tìm kiếm sinh viên có học lực khá giỏi ở các trường đại học, cao đẳng được đào tạo đúng chuyên NDL trên toàn quốc sau khi tốt nghiệp để cung cấp cho doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, nhất là thành phố có chính sách hỗ trợ chi phí đào tạo sau đại học cho đối tượng sinh viên khi được tiếp nhận và cam kết làm việc ở doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước. Ngoài ra, thành phố cũng nên xây dựng chiến lược lựa chọn những học sinh giỏi ở các trường Trung học phổ thông của thành phố cho đi học nước ngoài theo ngành nghề thoả thuận trước giữa thành phố và học sinh với cam kết sau khi học xong trở về làm việc cho thành phố Đà Nẵng.

- Doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu ban hành cơ chế đặc thù đối với NLCLC làm việc ở một số công việc trọng tâm cho từng lĩnh vực của ngành du lịch (bao gồm khâu giao việc, đánh giá kết quả và chế độ đãi ngộ); thí điểm thực hiện trả lương năng lực và hiệu suất làm việc; áp dụng chế độ lương vượt trội đối với các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt.

- Thực hiện đánh giá năng lực, kết quả công việc khách quan, minh bạch và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để giữ chân người lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Ngoài ra, tạo cơ hội học tập, phát triển năng lực nên phân công bố trí công việc cho NLDL đúng năng lực chuyên môn, sở trường từng người. Vị trí làm việc là một động lực thúc đẩy nhân lực vận dụng được khả năng trí tuệ của họ

133


vào công việc mà họ đang đảm nhiệm ở doanh nghiệp. Lãnh đạo các doanh nghiệp cần mạnh dạn giao công việc cũng như quyền hạn và trách nhiệm cho nhân viên để họ có thể độc lập tự chủ trong mọi tình huống đạt hiệu quả cao nhất.

- Để thu hút nhân viên giỏi, các doanh nghiệp không phải áp dụng những biện pháp đối phó nhất thời mà cần phải có chiến lược (từ thu hút, tuyển dụng, hội nhập đến cộng tác). Khâu tuyển dụng chuyên nghiệp cũng góp phần lôi kéo và giữ nhân viên giỏi. Đồng thời sự thiếu chuyên nghiệp và minh bạch trong tuyển dụng đã làm nhiều doanh nghiệp mất nhân viên giỏi ngay trong tầm tay. Để có nhân viên giỏi, DNDL cần thực hiện thu hút ứng viên từ nhiều nguồn, tránh tình trạng chỉ sử dụng người nhà vì có nhiều hạn chế. Để tuyển dụng nhân lực đáp ứng yêu cầu, NLCLC, các DNDL cần phải có tiêu chí tuyển dụng rõ ràng khoa học. Như vậy, quá trình tuyển dụng rất công phu để chọn được người lao động giỏi đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, không phải bao giờ doanh nghiệp cũng chọn được người phù hợp dù đã thực hiện theo đúng quy trình tuyển dụng.

4.2.3. Phát triển giáo dục, đào tạo không ngừng nâng cao chất lượng nhân lực du lịch ở thành phố Đà Nẵng

Có thể nói trong những năm qua, cùng với sự phát triển nhanh chóng của NDL thì NLDL thành phố Đà Nẵng đã quan tâm, đầu tư chú ý đến trình độ chuyên môn đạt tiêu chuẩn nghề theo Luật Du lịch quy định như HDVDL và tiêu chuẩn nghề theo các bộ tiêu chí của nghề du lịch Việt Nam (VTOS) của các vị trí công việc đối với lao động trực tiếp ở các DNDL dần dần đáp ứng nhu cầu của xã hội trong điều kiện hội nhập. Đào tạo NLDL là đào tạo cho người lao động những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ sâu về du lịch; những kiến thức về văn hóa, xã hội và giỏi ngoại ngữ; phải được giáo dục để có tâm huyết với nghề; được rèn luyện để nâng cao tính nghệ thuật trong công việc; đào tạo để có khả năng phát huy cá tính, nét riêng biệt của bản thân và hiểu biết sâu sắc về du khách; được rèn luyện những kỹ năng tổ chức sự kiện, làm việc nhóm; có khả năng thích ứng với sự thay đổi; có năng lực hội nhập quốc tế; có tinh thần dân tộc và đổi mới. Vì vậy, trong thời gian tới để đáp ứng được nhu cầu NLDL trong bối cảnh hội nhập như hiện nay từ quy mô, cơ cấu và chất lượng các CSĐT NLDL, các DNDL cần giải quyết tốt các vấn đề sau.

134


Một là, mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo nghiệp vụ du lịch

Hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 33 CSĐT về chuyên NDL, nhưng chỉ mới có 1 trường cao đẳng du lịch nên việc đào tạo sau đại học chuyên NDL còn rất hạn chế. Trung bình mỗi năm tổng số tuyển sinh đầu vào NDL khoảng gần 3.500 sinh viên, mà theo dự báo nhu cầu nhân lực của NDL trong những năm tới cần số lượng lớn cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp nên thiết nghĩ cần phải mở rộng hệ thống quy mô đào tạo đối với NDL theo các cấp học khác nhau nhằm đáp ứng được nhu cầu của các DNDL trong thời gian tới là vô cùng cần thiết. Bên cạnh, phát triển loại hình đào tạo công lập, thành phố cần tạo điều kiện để phát triển các loại hình đào tạo ngoài công lập từ dạy nghề đến cao đẳng và đại học chuyên NDL. Đây là mô hình khá phổ biến ở các nước trên thế giới, và cũng là một cách khai thác, huy động được các nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Đặc biệt, khuyến khích các DNDL mở các CSĐT chuyên ngành hoặc ký hợp đồng đào tạo riêng theo yêu cầu. Thực tiễn cho thấy, loại hình đào tạo này rất có hiệu quả vì nó gắn kết được quá trình đào tạo với sử dụng nhân lực, tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa các CSĐT và DNDL.

Bên cạnh mở rộng quy mô thì tăng cường mở rộng đào tạo các ngành học mang tính chuyên ngành, đảm bảo sự phân chia ngành nghề của bộ tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam - VTOS. Vì vậy, trong thời gian tới các CSĐT về du lịch cần ưu tiên đào tạo một số ngành nghề như: HDVDL, Marketing, quản trị khách sạn, nhà hàng, các công ty lữ hành... Đặc biệt, Trường Đại học Ngoại ngữ tăng chỉ tiêu tuyển sinh cho các khoa tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Trung, tiếng Hàn Quốc. Liên kết với các trường đào tạo chuyên về du lịch có danh tiếng ở các nước trên thế giới có các NDL phát triển như Thụy Sỹ, Hà Lan, Pháp, Úc, Singapore, Anh, Mỹ… nhằm tạo ĐTNL quản lý cấp cao cho các DNDL, từng bước thay thế các nhà quản lý nước ngoài hiện nay mà các khách sạn, khu nghỉ mát có quy mô lớn, NLCLC đang sử dụng cụ thể là đào tạo chuyên sâu về quản lý ở các vị trí Tổng Giám đốc, Giám đốc điều hành, Trưởng các bộ phận quản lý trong khách sạn, nhà hàng và các công ty lữ hành... Để nâng cao khả năng giao tiếp thực sự của sinh viên bằng tiếng Anh trong điều kiện không thể tăng tổng số lượng tín chỉ nói chung và số tín chỉ của các môn tiếng Anh nói riêng, thay đổi, chuyển dần cách dạy và học một số học

135


phần chuyên ngành sang giảng dạy bằng tiếng Anh. Nếu làm tốt việc dạy học, trao đổi chuyên môn giữa giảng viên với sinh viên, giữa sinh viên với nhau bằng tiếng Anh, sẽ là cơ hội tạo lập cho sinh viên những phản xạ ngôn ngữ cần thiết để họ có kỹ năng về giao tiếp bằng ngôn ngữ chung thì họ tự tin hơn trong giao tiếp với du khách nước ngoài trong quá trình thực thi công việc của mình.

Hai là, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo theo chuẩn nghề du lịch và đáp ứng yêu cầu quốc tế

- Các CSĐT NLDL cần xây dựng chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với thực tiễn, với Luật giáo dục nghề nghiệp 2015, Luật Du lịch năm 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 để đảm bảo sinh viên sau khi tốt nghiệp được tuyển dụng đáp ứng được yêu cầu của DNDL, với nhu cầu ngày càng cao. Các CSĐT ở trên địa bàn thành phố nên sử dụng Bộ Tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN, Bộ tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam VTOS để xây dựng nội, chương trình học có tính bắt buộc nhằm phù hợp với tình hình sử dụng của DNDL trong nước và quốc tế. Nhất là, nội dung đào tạo phải gắn với đặc điểm ngành nghề du lịch, phải đảm bảo trang bị các kiến thức cơ bản về nghề, gắn với kiến thức đặc thù hiện nay của nghề du lịch như kiến thức kinh tế - xã hội, kiến thức lịch sử, địa lý, văn hóa… không chỉ có HDVDL như là đại sứ văn hóa mà tất cả NLDL đều phải có kiến thức thì sẽ phục vụ tốt các yêu cầu của KDL thông thái ngày nay. Nếu làm tốt điều này, thì trong thời gian tới sẽ khắc phục được tình trạng HDVDL chui, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hình ảnh và đánh mất lòng tự hào dân tộc. Có thể thấy rằng, một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do lực lượng NLDL, nhất là HDVDL chưa phát triển đồng bộ và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường SLĐ của NDL.

- Cần xây dựng thời gian và nội dung thực tập của sinh viên một cách hợp lý, cân đối thời gian học lý thuyết và thời gian thực hành, có tác dụng thiết thực, đồng thời nhà trường và giáo viên hướng dẫn tăng cường kiểm tra, giám sát sinh viên thực tập. Nên phân bổ thời gian thực tập của sinh viên vào những tháng cao điểm, phối hợp, liên kết mạnh mẽ với các doanh nghiệp để cho học sinh có cơ hội thực tập được tham gia đầy đủ các công việc tại các DNDL để tích lũy kinh nghiệm thực tế, khả năng thao tác công việc nhanh, đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thiết nghĩ các trường cũng nên bắt buộc sinh viên NDL phải có

136


một chứng chỉ thực tập nghề nghiệp trong thời gian học, sinh viên phải xin làm ở một DNDL trong một thời gian nhất định, để đạt được chứng chỉ đó. Điều này sẽ bắt buộc họ phải nỗ lực cá nhân nhiều hơn trong việc trau dồi kiến thức, trang bị kỹ năng mềm, thái độ tich cực, tích lũy kinh nghiệm ngay khi còn đi học.

- Tiếp tục mở rộng qui mô, hoàn chỉnh CTĐT theo hướng nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh. Trong CTĐT tất cả các nghề du lịch, ngoài kỹ năng chuyên ngành, tin học và ngoại ngữ, cần chú ý đào tạo những kỹ năng cơ bản như: giải quyết vấn đề (tình huống); tổ chức công việc; kỹ năng bán hàng; thái độ phục vụ; ý thức kỷ luật lao động; ý thức bảo vệ dân tộc... Xây dựng chuẩn đầu ra và thiết kế CTĐT theo chuẩn đầu ra phù hợp với nhu cầu của nhà tuyển dụng. Theo đó, các CSĐT tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn và quản lý các DNDL để xây dựng chuẩn đầu ra, thực hành kỹ năng đánh giá sự phù hợp chuẩn đầu ra ngành học, môn học; thiết kế chương trình học nhất quán với chuẩn đầu ra; vận dụng những công cụ cần thiết để thực hiện quy trình thiết kế chương trình theo mục tiêu học tập và chuẩn đầu ra.

Ba là, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Để khắc phục được tình trạng thiếu đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy tại chuyên NDL ở các trường đại học, cao đẳng ở thành phố hiện nay, cần làm tốt các giải pháp như: (1) Tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp đại học và sau đại học ở các trường Đại học trong nước, nước ngoài về giảng dạy ở các CSĐT chuyên NDL của thành phố. Lựa chọn những sinh viên ưu tú, tốt nghiệp loại giỏi ở các trường du lịch trên địa bàn thành phố, được tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng trở thành giáo viên của trường; (2) Trên cơ các chính sách thu hút NLCLC của thành phố (trong đó có NLDL), các CSĐT công lập cần lập kế hoạch tuyển dụng hàng năm phối hợp, đề xuất với UBND thành phố tiếp nhận về làm công tác giảng dạy ở các trường. Ngoài ra, cần có sự hợp tác, liên kết với các CSĐT lớn ở trong nước (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh) và nước ngoài cử giáo viên thỉnh giảng đến Đà Nẵng giảng dạy cho sinh viên; (3) Thu hút các công chức, viên chức, các nhà quản lý, các nhà khoa học có trình độ, các doanh nhân, nghệ nhân, chuyên gia, các công nhân kỹ thuật tay nghề bậc cao tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng PTNLDL. Tiếp

137


tục đào tạo kỹ năng cho đội ngũ thẩm định viên, giám sát viên, đào tạo viên du lịch và sử dụng hiệu quả đội ngũ này trong ĐTNL theo nhu cầu xã hội.

Đồng thời, từng bước nâng cao chất lượng giảng viên (nhất là đội ngũ giáo viên cơ hữu) bằng việc chuẩn hóa trình độ đào tạo. Giáo viên phải có đủ bằng cấp để giảng dạy theo quy định của Bộ GD-ĐT và định kỳ hàng năm phải được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở trong nước và nước ngoài. Cơ sở đào tạo phải có dự trù kinh phí hàng năm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn, thông qua các chương trình trao đổi, tham gia hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế và học tập, tu nghiệp ở nước ngoài, hợp tác giữa các CSĐT chuyên NDL với với DNDL, cơ quan nghiên cứu về du lịch ở trong và ngoài nước. Thực hiện chế độ bồi dưỡng luân phiên cho giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch.

Nâng cao năng lực, kinh nghiệm thực tiễn cho đội ngũ giáo viên, bằng cách tạo điều kiện cho giáo viên tiếp cận và thâm nhập vào các HĐDL để có thêm kinh nghiệm thực tế (là điều mà nhiều giảng viên còn thiếu) ít nhất 1 lần trong năm với thời gian từ 1 - 3 tháng. Hoạt động thực tế của giảng viên có thể rất đa dạng: đến tham quan và tìm hiểu, thực tập với vai trò tác nghiệp và quản trị, tham gia giải quyết vấn đề cùng DN (kinh nghiệm của các CSĐT về du lịch tại Châu Âu, cứ sau thời gian giảng dạy từ 2 đến 4 năm tại trường, các giáo viên phải ký hợp đồng làm việc ít nhất 1 năm tại các DNDL, sau đó trường mới tiếp tục hợp đồng giảng dạy với giáo viên).

Quan tâm cải cách, chế độ tiền lương và nâng cao thu nhập cho đội ngũ giáo viên. Bên cạnh việc trả lương theo khung, bậc lương do nhà nước quy định, các CSĐT có chính sách trả tiền lương, tiền công và các chế độ thích hợp với sự đóng góp của từng người nhằm đảm bảo cho đội ngũ giáo viên có thu nhập đủ sống, gắn bó với trường, yên tâm trong việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Bốn là, tăng cường trang thiết bị, phương tiện phục vụ giảng dạy, học tập và tổ chức các hoạt động hỗ trợ sinh viên

Trang bị và thường xuyên nâng cấp các phòng thực hành, nhằm tạo điều kiện cho sinh viên áp dụng kiến thức vào trong tình huống thực tế mô phỏng. Ngoài các phòng thực hành các hoạt động cơ bản của khách sạn, nhà hàng thì phòng thực

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 15/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí