114
lưu trú được căn cứ các tiêu chí ở trên và theo tính toán nhu cầu về phòng lưu trú đến năm 2020 ước đạt đến 25.000 phòng, năm 2025 là 41.000 và đến năm 2030 đạt
61.000 phòng (bảng 4.1).
Bảng 4.1. Dự báo các chỉ tiêu liên quan khách du lịch ở thành Đà Nẵng đến năm 2025 - 2030
Chỉ tiêu | 2020 | 2025 | 2030 | Tốc độ tăng trưởng bình quân | ||
2021- 2025 | 2026 - 2030 | |||||
1 | Tổng số lượt khách (lượt khách) | 8.850.000 | 14.021.000 | 20.943.000 | 9,64 | 8,36 |
- Khách quốc tế | 2.450.000 | 3.946.000 | 5.933.000 | 10,00 | 8,50 | |
- Khách nội địa | 6.400.000 | 10.075.000 | 15.010.000 | 9,50 | 8,30 | |
2 | Tổng số lượt khách lưu trú (lượt khách) | 4.440.000 | 7.617.500 | 11.440.100 | 11,40 | 8,47 |
- Khách quốc tế | 1.347.500 | 2.328.100 | 3.559.800 | 11,56 | 8,86 | |
- Khách nội địa | 3.092.500 | 5.289.400 | 7.880.300 | 11,33 | 8,30 | |
3 | Chi tiêu bình quân của KDL (USD/ngày) | |||||
- Khách quốc tế | 130 | 135 | 140 | 0,76 | 0,73 | |
- Khách nội địa | 74 | 80 | 85 | 1,57 | 1,22 | |
4 | Số ngày lưu trú bình quân (ngày) | 2,8 | 2,9 | 3,0 | ||
5 | Tổng thu từ KDL (tr.USD) | 1.427,80 | 2.655,23 | 4.375,88 | 12,26 | 10,09 |
Thu từ khách quốc tế | 633,82 | 1.129,87 | 1.827,36 | 13,95 | 10,81 | |
Thu từ khách nội địa | 793,98 | 1.525,36 | 2.548,52 | 13,21 | 10,51 | |
6 | Nhu cầu buồng lưu trú (buồng) | 25.500 | 41.100 | 61.200 | 10,02 | 8,29 |
Nhu cầu của khách quốc tế | 8.600 | 13.200 | 19.500 | |||
Nhu cầu của khách nội địa | 16.900 | 27.900 | 41.700 | |||
7 | Hệ số chung buồng khách quốc tế | 2,0 | 2,0 | 2,0 | ||
8 | Hệ số chung buồng khách nội địa | 2,0 | 2,0 | 2,0 | ||
9 | Công suất buồng | 60% | 70% | 75% |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng Trong Thời Gian 2011- 2017
- Các Nguồn Kinh Phí Đào Tạo Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Của Doanh Nghiệp Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng
- Quan Điểm Và Dự Báo Nhu Cầu Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng Đến Năm 2030
- Giải Pháp Chủ Yếu Để Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng
- Phát Triển Giáo Dục, Đào Tạo Không Ngừng Nâng Cao Chất Lượng Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng
- Thực Hiện Tốt Các Chính Sách Chăm Sóc Sức Khỏe, Nâng Cao Thể Lực, Cải Thiện Vóc Dáng Cho Nhân Lực Du Lịch Ở Thành Phố Đà Nẵng
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Nguồn: [81]
115
Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp tính toán cụ thể cho dự báo nhu cầu NLDL ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 nhưng thực tế DNDL, các cơ quan quản lý Nhà nước đã sử dụng phương pháp vận dụng “Thông lệ quốc tế” về xác định nhu cầu lao động trong NDL, đây là phương pháp dựa vào sự hoạt động trong thực tế của NDL. Theo Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) - thông lệ chung của thế giới thì nhu cầu lao động thường được xác định từ tỷ lệ lao động NDL trên tổng lao động của địa phương hay quốc gia (tùy sự PTDL của địa phương hay quốc gia đó) và thường chiếm khoảng 10 - 11% nhưng cũng có quốc gia, địa phương tỷ lệ này có thể cao hơn từ 12 - 13%. Đối với Việt Nam, số lượng lao động trực tiếp của NDL thường được tính toán dựa vào sự hoạt động từ các DNDL như lưu trú, nhà hàng, công ty lữ hành, đối với lĩnh vực lưu trú thì phải căn cứ vào số phòng khách sạn theo hệ số 1,5 người/phòng (hiện nay hệ số này ở Đà Nẵng là 1,6 người/phòng). Còn đối với cách tính toán để dự báo lao động gián tiếp được xác định theo tỷ lệ 1,8 - 2 lao động gián tiếp/1lao động trực tiếp. Cách tính này cũng đạt mức tương đối chứ chưa phản ánh được độ chính xác tuyệt đối ở từng lĩnh vực cụ thể.
Mặt khác, căn cứ dự báo vào số lượng phòng lưu trú, vào chỉ tiêu lao động bình quân cho một phòng của cả nước cũng như ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, (trung bình 1 phòng có 1,5 lao động trực tiếp) và số lao động gián tiếp ngoài xã hội (1 lao động trực tiếp tương ứng với 2 lao động gián tiếp). Căn cứ vào thực tế phát triển NDL ở Đà Nẵng hiện nay và mục tiêu đến năm 2030 thì nhu cầu về lao động cho NDL tăng lên nhanh chóng, trong đó dự báo lao động trực tiếp NDL đến năm 2020 là cần 38.300 lao động (tăng gần 5.000 lao động so với năm 2017); năm 2025 là 61.700 lao động (tăng gần gấp 2 lần năm 2020), đến năm 2030 là 91.800 lao động, và các lao động gián tiếp được dự báo đến năm 2020 là 76.600 người, năm 2025 là 123.400 người, đến năm 2030 là 183.600 người [bảng 4.2]
Bảng 4.2. Dự báo nhu cầu lao động ngành du lịch Đà Nẵng (2020 - 2030)
ĐVT | 2020 | 2025 | 2030 | |
Lao động trực tiếp | Người | 38.300 | 61.700 | 91.800 |
Lao động gián tiếp | Người | 76.600 | 123.400 | 183.600 |
Tổng số lao động ngành du lịch Đà Nẵng | Người | 114.900 | 185.100 | 275.400 |
Nguồn: [81]
116
4.1.1.3. Phương hướng đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân lực du lịch ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2030
Một là, nội dung đào tạo về phát triển nhân lực du lịch
Qua đánh giá thực trạng NLDL ở thành phố Đà Nẵng hiện tại chưa đủ đáp ứng nhu cầu, đặc biệt là NLCLC còn hạn chế; sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ quản lý du lịch và NLDL được đào tạo chuyên ngành, chính điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng du lịch theo chiến lược phát triển NDL đến năm 2030. Vì vậy, phương hướng đào tạo, PTNLDL đến năm 2030, thành phố sẽ tập trung vào các nội dung chính như sau:
- Đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước: Đào tạo bổ sung đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp quận, huyện, tuyển dụng và đào tạo cán bộ phụ trách chuyên về du lịch, bổ sung vào Phòng Văn hóa - Thông tin tại các quận, huyện. Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản lý hiện tại được nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức về du lịch thông qua các chương trình phối hợp với các CSĐT trong nước cũng như tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm trong nước và nước ngoài. Thu hút NLDL trẻ và có tiềm năng thông qua chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Lựa chọn các cán bộ trẻ, có năng lực để đào tạo tại nước ngoài bằng kinh phí của Nhà nước để tạo cán bộ nguồn cho bộ máy quản lý du lịch.
- Đối với nguồn nhân lực du lịch ở các DNDL: Tập trung vào đào tạo tại chỗ để khai thác nhân lực tại địa phương đảm bảo yêu cầu sử dụng lao động địa phương là chủ yếu. Đào tạo nhân lực tập trung cho đội ngũ lao động trực tiếp có tay nghề cao đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư du lịch và yêu cầu nâng cao chất lượng SPDL, đặc biệt nâng cao trình độ ngoại ngữ. Bên cạnh đó, vấn đề thu hút lao động có chất lượng cao từ các địa phương và khu vực khác, kể cả lao động nước ngoài cần coi là chiến lược quan trọng trong thời gian trước mắt để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như NLDL ở than phố Đà Nẵng. Các DNDL cần trả mức lương cạnh tranh cho nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
- Thành phố Đà Nẵng cần xây dựng trung tâm ngoại ngữ liên kết với Cao đẳng nghề du lịch Đà Nẵng. Sở Du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo, các DNDL cần hợp tác chặt chẽ với trường cao đẳng Nghề du lịch Đà Nẵng để xây dựng khung chương trình đào tạo tại trung tâm, đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời,
117
có thể kêu gọi hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, các CSĐT ngoại ngữ tư nhân tại Đà Nẵng tư vấn trong việc xây dựng chương trình đào tạo cho trung tâm và hỗ trợ kinh phí. Với mục tiêu nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ lao động tại các DNDL ở thành phố.
- Tổ chức các khóa thực tập cho sinh viên từ các trường du lịch ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đến thực tập tại Đà Nẵng (khách sạn 4 - 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, các nhà hàng lớn, các công ty lữ hành quốc tế...), sau khóa đào tạo các doanh nghiệp sẽ tổ chức thi tuyển nhằm tuyển chọn đội ngũ lao động chất lượng cao. Để thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý với các DNDL đang hoạt động trên địa bàn thành phố.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ và đào tạo lại về nghiệp vụ, kỹ năng chuyên môn du lịch, ngoại ngữ cho NLDL là hộ kinh doanh cá thể, người dân địa phương tham gia kinh doanh du lịch, các lực lượng đang lao động trong các DNDL trên địa bàn và các nhà quản lý du lịch.
- Bên cạnh việc đào tạo nghiệp vụ ngoại ngữ, cần chú ý đến cung cấp kiến thức về môi trường sinh thái như: cảnh quan tự nhiên, các giá trị du lịch sinh thái, hiểm họa môi trường sinh thái với phát triển kinh tế - xã hội, PTDL, xã hội hóa KDDL... Các kiến thức về nhu cầu, sở thích, thói quen, tập quán giao tiếp ứng xử của KDL (cả khách quốc tế và khách nội địa).
Hai là, hình thức tổ chức thực hiện
Trong thời gian tới, để phát triển NLDL cần tập trung kết hợp đào tạo mới, với các hình thức đào tạo khác nhau như dài hạn, ngắn hạn, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngoài ra, tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường Cao Đẳng nghề du lịch Đà Nẵng, phối kết hợp với các CSĐT có khoa du lịch của các trường đại học, cao đẳng lớn trong nước và ngoài nước để tiến hành thực hiện chương trình đào tạo NLDL cho thành phố đến năm 2030. Cần có sự kết hợp giữa các cơ quan ban ngành trên địa bàn thành phố như UBND thành phố Đà Nẵng, Sở Du lịch, Sở Lao động Thương binh và Xã hội và các cơ quan sở ban ngành có liên quan với các DNDL trên địa bàn thành phố về tổ chức các khóa đào tạo, đào tạo lại, PTNLDL nhằm đảm bảo yêu cầu trong chiến lược phát triển NDL của thành phố đến năm
118
2030. Thông qua nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ PTDL của thành phố; từ nguồn đóng góp của các DNDL trên địa bàn; từ các nguồn vốn tài trợ, viện trợ khác cho NDL.
Ba là, một số chương trình đào tạo nhằm phát triển nhân lực du lịch
- Xây dựng hệ thống đào tạo liên kết nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp - người lao động: Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng lao động ở các DNDL trên địa bàn Đà Nẵng và các nhà đầu tư trong tương lai xác định nhu cầu đào tạo, từ đó xây dựng chương trình đào tạo giáo dục phù hợp, tổng thể theo hướng phối hợp ba bên (Doanh nghiệp, nhà nước, cơ sở giáo dục nghề nghiệp) nhằm đảm bảo mục tiêu ĐTNLDL đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố Đà Nẵng.
- Chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn nghề quốc gia cho các lĩnh vực lưu trú, nhà hàng, lữ hành: Xây dựng hệ thống đào tạo áp dụng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho các DNDL trên địa bàn thành phố. Đến năm 2025 có khoảng 30% DNDL được đào tạo theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, đến năm 2030 có khoảng 50% DNDL được đào tạo theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.
- Chương trình đào tạo theo năng lực KDDL cho cộng đồng, thông qua các chương trình đào tạo cho cộng đồng, tập trung vào các điểm du lịch mới khai thác, các điểm du lịch cộng đồng phía Tây, Bắc thành phố. Với các nội dung đào tạo như: nhận thức về du lịch, PTDL và KDDL; các kỹ năng phục vụ khách (đón tiếp, sơ cứu, liên hệ với khách...); các kỹ năng nghiệp vụ (nấu ăn, làm phòng, phục vụ ăn uống, hướng dẫn,...); các kỹ năng nâng cao (du lịch bền vững, quản lý du lịch cộng đồng). Hướng đến năm 2025 các làng có HĐDL cộng đồng được đào tạo đầy đủ các kỹ năng; đến năm 2030 có 100% số làng có tiềm năng PTDL cộng đồng được đào tạo về nghiệp vụ du lịch.
4.1.2. Quan điểm về phát triển nhân lực du lịch ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới
4.1.2.1. Phát triển nhân lực du lịch phải gắn với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố
Trên thế giới phát triển bền vững nói chung và PTDL theo hướng bền vững nói riêng là một xu thế tất yếu khách quan của thời đại ngày nay. Quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ XII: “Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh
119
tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng. Kết hợp hiệu quả phát triển theo chiều rộng với chiều sâu… không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh” [20, tr.280]. Vì vậy, PTNL NDL cần phải đảm bảo đáp ứng được mục tiêu, chiến lược phát triển bền vững của NDL. Với quan điểm phát triển NLDL là yếu tố trung tâm quyết định đến sự phát triển của NDL, bởi NLDL vừa là điểm xuất phát của chiến lược phát triển, vừa là mục tiêu của sự phát triển NDL. Đặc biệt, hiện nay với sự tăng trưởng nhanh chóng của NDL, nhu cầu tiêu dùng của KDL cũng ngày càng tăng lên đòi hỏi người lao động trong NDL phải luôn quan tâm, đầu tư bồi dưỡng thể lực, sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, thái độ đúng đắn đáp ứng yêu cầu đặc trưng của NDL. Đây là yêu cầu vô cùng cần thiết nhằm khai thác tiềm năng loại hình này một cách có khoa học đảm bảo giữ vững ổn định môi trường, cảnh quan thiên nhiên của thành phố.
Bên cạnh đó, sức ép gia tăng dân số đã làm cho cơ hội việc làm trở nên khó khăn hơn sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của NDL. Vì vậy, cần đặc biệt ưu tiên các chính sách, tạo điều kiện để PTNLDL nhằm đảm bảo vai trò, yếu tố quyết định thành công đến sự phát triển của NDL; tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác các lợi thế quốc gia và nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập quốc tế ngày càng sâu hơn, đầy đủ hơn, đồng thời tạo nên sự gắn kết thị trường SLĐ du lịch khu vực và thế giới.
Mặt khác, PTNLDL phải đảm bảo quá trình thực hiện công bằng xã hội, tạo sự kết nối hài hoà giữa phúc lợi xã hội với sử dụng những ưu việt của cơ chế thị trường trong hoạt động sản xuất du lịch với hiệu quả kinh tế - xã hội, hướng đến bình đẳng về cơ hội PTNLDL cho tất cả các công dân, nhóm xã hội không phân biệt dân tộc hay vùng miền; Phải luôn chú ý và coi trọng công tác đào tạo nghề, cần đặc biệt quan tâm hơn đào tạo truyền nghề (như nghề nấu ăn, nghề truyền thống của các làng nghề...), đào tạo tại chỗ; Đồng thời ưu tiên, hỗ trợ PTNL CLC, nhân lực có kỹ năng, kiến thức, thái độ phục vụ trực tiếp đảm bảo tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam và thỏa thuận của các nước trong khu vực đáp ứng nhu cầu NLDL trong nước và quốc tế.
4.1.2.2. Phát triển nhân lực du lịch phải gắn với hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, với tinh thần là “hợp tác và phát triển”, quá trình hội nhập phải đảm bảo gắn
120
kết nền kinh tế với sự phân công lao động quốc tế chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế của các quốc gia trong khu vực và thế giới. Xu hướng phát triển NDL dịch vụ được xem như là ngành kinh tế quan trọng và mũi nhọn của các quốc gia nên thông qua hoạt động trao đổi, giao lưu kinh tế, văn hóa với các nước, nhu cầu thỏa mãn khám phá về các điểm đến của KDL ở các quốc gia trên thế giới ngày một tăng lên là tất yếu khách quan. Vì vậy, cần tích cực và chủ động hội nhập PTNLDL vào nền kinh tế khu vực và thế giới luôn được xem đó là quan điểm nhất quán trong quá trình thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở cấp độ quốc gia và ở cấp độ tỉnh, thành phố trong cả nước. Với quan điểm tích cực chủ động hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội mới cho thành phố Đà Nẵng trong việc thu hút được nguồn vốn, khoa học - công nghệ, đội ngũ quản lý, các chuyên gia giỏi, các nhà đầu bếp, HDVDL quốc tế của thế giới và tiếp cận được tiêu chuẩn nghề du lịch của thế giới đảm bảo phân công, hợp tác NLDL quốc tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của NDL và thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố theo mục tiêu, chiến lược đến năm 2030.
4.1.2.3. Phát triển nhân lực du lịch phải đảm bảo tính toàn diện
Phát triển nhân lực du lịch là yêu cầu đòi hỏi tất yếu cho sự phát triển của NDL tức là NLDL phải đảm bảo yêu cầu cả về thể lực, trí lực và thái độ. Với quan điểm phát triển toàn diện con người nói chung và NLDL nói riêng đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ XII là: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất... phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc” [20, tr.29]. Vì vậy, để PTNLDL đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại bên cạnh các yếu tố chung, thì cần đặc biệt chú ý đến việc phát triển yếu tố trí lực (trí tuệ, tri thức) bởi đó không chỉ là sự nổi trội khác biệt về chất của NLDL so với thời kỳ trước, mà còn tạo ra những lợi thế so sánh của NLDL ở nước ta trong bối cảnh hội nhập sâu hơn, đầy đủ hơn.
Khi nói đến quan điểm toàn diện, tức là PTNLDL cần phải chú trọng tới tất cả các mặt từ cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng, kiến thức, thái độ của lao động trong lĩnh vực du lịch, nhất là ở các vị trí công việc cao cấp như quản lý khách sạn, nhà hàng, giám đốc điều hành tour, giám đốc sale,... các chuyên gia,
121
nhà khoa học, đội ngũ HDV, những người lao động trực tiếp ở các DNDL. Có thể nói, đây là đội ngũ đầu tàu, tiên phong xây dựng, hoạch định chiến lược, đề ra kế hoạch, hướng dẫn tổ chức thực hiện nhằm phát triển NDL của thành phố, và cũng là trụ cột trong phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển NLDL là đòi hỏi cấp bách nhất hiện nay và phải được thực hiện kịp thời, nhưng phải đảm bảo tính toàn diện, mối quan hệ mật thiết, thống nhất giữa thể lực, trí lực, tâm lực. Do đó, thời gian đến cần phải tạo sự liên kết đồng bộ, chú trọng và ưu tiên hàng đầu cho GD-ĐT, bồi dưỡng PTNLDL. Tuy nhiên, quá trình thực hiện phải nhất quán quan điểm là phát triển GD-ĐT NLDL phải đảm bảo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, với sự phát triển của khoa học
- công nghệ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo với yêu cầu PTNNL nói chung và thị trường SLĐ nói riêng. Tính toàn diện của PTNLDL cũng đồng nghĩa với người lao động có nhận thức đúng đắn vai trò nghề nghiệp trong xã hội và có lý tưởng cao đẹp, có được những kiến thức về kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử, địa lý, kỹ năng về giao tiếp để hình thành niềm tin, lý tưởng, lòng tự hào truyền thống dân tộc, vừa hồng vừa chuyên.
4.1.2.4. Phát triển nhân lực du lịch phải gắn với việc xã hội hóa các nguồn lực
Phát triển NLDL hiện nay cần đảm bảo tính chiến lược, phát triển tổng thể của quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức nên đòi hỏi phải có một cơ cấu NLDL phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh của NDL. Do đó, từ nay đến năm 2025 - 2030 thành phố phải điều chỉnh cơ cấu NNL của NDL theo hướng tăng tỷ trọng LĐ có trình độ chuyên môn cao về du lịch (qua đào tạo từ lao động nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học), giảm tỷ trọng lao động chưa qua đào tạo (lao động phổ thông ở các nhà hàng, các cơ sở lưu trú, các công ty lữ hành) mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cho thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Vì vậy, PTNLDL phải gắn với việc xã hội hoá các nguồn lực là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó NDL là nòng cốt, huy động nguồn lực từ các cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình giáo dục, ĐTNL cho NDL. Trong quá trình thực hiện thì Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô, định hướng, thực hiện các chương trình giáo dục hướng nghiệp và giáo dục toàn dân về PTDL, hỗ trợ bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện công bằng xã hội trong PTNLDL, đồng thời đào tạo nghề du lịch