Thực Trạng Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Tại Quảng Ninh


cần qua đào tạo tại chỗ hoặc qua các lớp học nghề ngắn hạn cũng có thể thực hiên được một số công việc có năng suất như những người được đào tạo chính quy. Các doanh nghiệp trong thực tế thường thích tuyển lao động chưa qua đào tạo hoặc tuyển những nhân viên có trình độ ban đầu thấp, làm bán thời gian để sau đó cung cấp cho họ một số chương trình đào tạo nghề và kèm cặp tại chỗ. Đối với người lao động trong trường hợp này họ có thể bắt đầu công việc và có thu nhập sớm hơn từ các kỹ năng thu nhận được tại nơi làm việc. Như vậy đối với những người lao động không được đào tạo chuyên nghiệp thì ngành du lịch là sự lựa chọn tốt về công việc. Có thể thấy đây là quan niệm không đúng về việc làm trong ngành du lịch, ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ du lịch. Vì vậy cần xác định phát triển nguồn nhân lực du lịch là cần thiết, sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nhân lực trong du lịch và thay đổi quan niệm trên của nhiều người khi tham gia làm trong ngành du lịch.

Chất lượng của sản phẩm du lịch và chất lượng của nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong khi thời gian để tạo nên một sản phẩm vật chất là khá nhanh chóng, quản lý tương đối dễ dàng thì chất lượng nguồn nhân lực du lịch lại cần nhiểu thời gian, công sức, công tác quản lý cũng phức tạp hơn. Những khu du lịch tiêu chuẩn quốc tế, những khách sạn cao cấp, tiện nghi sang trọng… sẽ không thể xứng tầm giá trị và chất lượng dịch vụ nếu không có một đội ngũ nhân lực du lịch chuyên nghiệp, có chất lượng tương xứng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, đồng thời đảm bảo định hướng phát triển bền vững.‌‌

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC DU LỊCH TẠI QUẢNG NINH

2.1. Một vài nét khái quát hoạt động du lịch tại Quảng Ninh


2.1.1. Điều kiện phát triển du lịch Quảng Ninh

Quảng Ninh nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, có biên giới giáp với Trung Quốc thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với quốc gia đông dân nhất hành tinh bằng cả đường bộ và đường biển; đồng thời du lịch bằng đường biển ở Quảng Ninh cũng có nhiều thuận lợi nhờ phía Đông giáp biển Đông. Với lợi thế về vị trí địa lý và tài nguyên, Quảng Ninh được xác định là một trong 3 đỉnh của tam giác tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Quảng Ninh đã tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - Thương mại dịch vụ và Du lịch - Nông nghiệp, đóng góp của Công nghiệp và dịch vụ đối với nền kinh tế của tỉnh ngày càng tăng. Với định hướng đó, Quảng Ninh sẽ tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong đó thương mại và du lịch được chú trọng đầu tư, phát triển.

Quảng Ninh là vùng đất được ưu đãi nhiều tài nguyên du lịch vô giá, đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cùng với nhiều giá trị văn hóa lịch sử có ý nghĩa cho sự phát triển du lịch, hình thành nhiều loại hình du lịch.

Trước hết, đó là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên đa dạng và phong phú, với nhiều loại hình: danh lam thắng cảnh, nguồn nước khoáng, hệ sinh thái động thực vật.

Danh lam thắng cảnh là một ưu thế nổi trội để phát triển du lịch. Vịnh Hạ Long là thắng cảnh độc đáo của Quảng Ninh, có giá trị độc đáo về nhiều mặt: giá trị về thẩm mỹ, địa chất, địa mạo… Nhờ những giá trị đó mà vịnh Hạ Long được UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, là tài sản vô giá và là tài sản của quốc gia.

Ngoài Vịnh Hạ Long nổi tiếng, Quảng Ninh còn có khoảng 30 danh lam thắng cảnh có giá trị khác cùng các hang động, bãi tắm đẹp, đồng thời nguồn nước khoáng phong phú ding để điều trị dưỡng bệnh và nguồn nước


giải khát làm nên sự đa dạng cho du lịch Quảng Ninh. Bên cạnh đó, ở Quảng Ninh còn có hệ sinh thái đa dạng với nhiều loài động thực vật quý hiếm. Đó là các hệ sinh tháI biển nhiệt đới với thảm thực vật thường xanh quanh năm trên các đảo, rừng ngập mặn với nhiều loài chim thú rừng, hệ sinh thái san hô độc đáo.

Quảng Ninh còn có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú với hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa với quy mô lớn, có giá trị cho phát triển du lịch như khu di tích Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm, đền Sinh, khu lăng mộ nhà Trần, cụm di tích Bạch Đằng, đền Cửa Ông, đình Quan Lạn, đình Trà Cổ… với các lễ hội nổi tiếng thu hút nhiều khách đến tham quan, tìm hiểu….

Nguồn tài nguyên du lịch phong phú góp phần vào việc hình thành và phát triển đa dạng các loại hình, sản phẩm du lịch: du lịch tham quan, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái…

BẢN ĐỒ QUẢNG NINH



33


Vùng I Vùng II Vùng III


Ghi chú:

Vùng I; Cụm di tích lịch sử văn hóa (Yên Hưng, Đông Triều, Uông Bí) Vùng II: Cụm danh lam thắng cảnh (Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn) Vùng III: Du lịch thương mại (Móng Cái, Trà Cổ)


2.1.2. Tình hình phát triển du lịch Quảng Ninh từ năm 2001 đến năm 2006

Giai đoạn từ năm 2001 đến 2006 tuy có những thăng trầm song đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của du lịch Quảng Ninh.

2.1.2.1. Khách du lịch

Mặc dù thời gian này, du lịch Quảng Ninh gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của một số nguyên nhân như: dịch bệnh SARS, dịch cúm gia cầm, thay đồi chính sách về thủ tục xuất nhập cảnh cho công dân Trung Quốc đi du lịch Việt Nam, số lượng khách du lịch tăng đều qua các năm. Trong thời gian từ năm 2001 đến năm 2006, lượng khách du lịch tăng bình quân là 14%, trong đó khách quốc tế tăng bình quân 13%.

Bảng 2.1. Lượng khách du lịch giai đoạn 2001 - 2006.

Đơn vị tính: Lượt khách


Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Tổng

1.977.646

2.344.558

2.500.636

2.675.000

2.458.500

3.110.000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh - 5



Quốc tế

679.555

921.203

1.085.810

1.046.000

1.005.800

1.150.000

Nội địa

1.298.091

1.423.355

1.414.826

1.629.000

1.452.700

1.960.000

Nguồn: Sở Du lịch Quảng Ninh [36]


Tỉng

Quốc tế Nội địa

Biểu đồ 2.1. Lượng khách du lịch đến Quảng Ninh

Với tốc độ tăng trưởng như hiện nay cùng với kết quả báo cáo 6 tháng đầu năm 2007 (tổng lượng khách tăng so với cùng kỳ là 35%) thì khả năng hoàn thành chỉ tiêu đón 5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 2,2 triệu lượt vào năm 2010 của du lịch Quảng Ninh có thể thực hiện được. Tuy nhiên, số ngày khách lưu lại còn thấp, trung bình là 1,4 ngày/khách cho thấy sức cạnh tranh và khả năng hấp dẫn của du lịch Quảng Ninh chưa cao.

Thị trường khách chủ yếu của Quảng Ninh trong thời gian qua là khách Trung Quốc, Châu Âu, Đông Bắc Á (gồm Nhật Bản và Hàn Quốc), trong đó khách Trung Quốc chiếm tỷ lệ lớn nhất khoảng 48,5%, Đông Bắc Á là khoảng 10% và Châu Âu là 16,5%. Mặc dù còn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng lượng khách Đông Bắc Á và Bắc Mỹ đang có xu hướng ngày tăng.

2.1.2.2. Doanh thu du lịch


Doanh thu du lịch tăng bình quân trong các năm từ 2001 - 2006 là 27%. Có thể thấy, chỉ số tăng trưởng về doanh thu của du lịch Quảng Ninh cao và nhanh chứng tỏ sự chuyển biến của du lịch Quảng Ninh về chất lượng. Cùng với sự tăng trưởng về doanh thu, các khoản nộp ngân sách nhà nước hàng năm tăng trưởng khá, đóng góp quan trọng vào GDP của tỉnh. Sự phát triển của du lịch đã tác động mạnh đến các ngành kinh tế khác và trở thành động lực phát triển cho nhiều ngành kinh tế liên quan.

Doanh thu du lịch Tổng doanh thu

Biểu đồ 2.2. Doanh thu du lịch Quảng Ninh

2.1.2.3. Về không gian du lịch, sản phẩm du lịch và đầu tư du lịch

Không gian du lịch được mở rộng, ngoài khu du lịch Hạ Long, đến nay toàn tỉnh đã hình thành các trung tâm du lịch mới gồm: Móng Cái - Trà Cổ, Vân Đồn, Uông Bí - Đông Triều - Yên Hưng. Như vậy, đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã hình thành 4 khu vực trọng điểm phát triển du lịch theo quy hoạch với những sản phẩm du lịch đa dạng: du lịch tham quan, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch nghỉ dưỡng… Các khu du lịch mới được hình thành với các khu vui chơi giải trí: Tuần Châu, công viên quốc tế Hoàng


Gia, các trung tâm thương mại và nhiều dịch vụ bổ sung đã tạo diện mạo mới cho du lịch Quảng Ninh.

Đến nay, toàn tỉnh đã thu hút được trên 40 dự án phát triển du lịch và dịch vụ với tổng vốn đăng ký đạt trên 10 nghìn tỷ đồng, trong đó có 19 dự án đầu tư hạ tầng các khu du lịch, 21 dự án đầu tư nước ngoài… Các dự án đầu tư về cơ sở lưu trú và các dịch vụ vui chơi giải trí, các dự án đầu tư về hạ tầng du lịch được đầu tư đúng hướng như: dự án nâng cấp tuyến đường du lịch Dốc Đỏ - Yên Tử, cáp treo Yên Tử, dự án đường du lịch Ngọc Vừng…

2.1.2.4. Về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch

Trong thời gian từ 2001 đến 2006, số lượng các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh không ngừng tăng lên so với định hướng. Năm 2001, tổng số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh là 253 cơ sở với 3.600 phòng nghỉ, trong đó có 19 khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 4 sao với 1.320 phòng nghỉ. Đến năm 2006, toàn tỉnh đã có 902 cơ sở lưu trú với tổng số 12.380 phòng trong đó có 75 khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 4 sao với 4.360 phòng nghỉ. Tuy nhiên đến nay tỉnh Quảng Ninh chưa có khách sạn 5 sao, đồng thời số lượng khách sạn do tập đoàn lớn quản lý còn ít.

Loại hình lưu trú tàu nghỉ đêm trên Vịnh phát triển khá nhanh trong những năm qua góp phần thu hút khách và tăng thời gian lưu lại của khách du lịch. Trong năm 2002 có 16 tàu kinh doanh loại hình này với 134 phòng, đến năm 2006, tăng lên 90 tàu với 680 phòng có chất lượng.

Các dịch vụ vận chuyển khách du lịch cũng không ngừng tăng lên. Năm 2001, tổng số tàu vận chuyển khách tham quan vịnh Hạ Long là 251 chiếc với 8.084 chỗ, đến năm 2006 có 370 tàu với 14.352 chỗ, trong đó có 334 tàu được xếp hạng sao và đạt tiêu chuẩn. Theo thống kê, tốc độ đầu tư tàu vận chuyển khách thăm vịnh Hạ Long tăng bình quân 9%/năm với chất lượng ngày càng được cải thiện, đạt hiệu quả kinh doanh cao. Các phương tiện vận


chuyển khách đường bộ cũng phát triển khá nhanh, chất lượng tốt, hiện Quảng Ninh có khoảng trên 200 xe ô tô vận chuyển khách du lịch. Một số loại hình vận chuyển khác cũng đang được hoạt động tại khu du lịch Bãi Cháy như: xe ngựa, xích lô du lịch, xe đạp đôi… tạo nên sự phong phú về phương tiện vận chuyển tại khu du lịch cho du khách lựa chọn.

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh

Du lịch Quảng Ninh ngày càng khởi sắc và đem lại nguồn thu đáng kể cho kinh tế - xã hội của tỉnh, tiếp tục khẳng định vị trí mũi nhọn. Cùng với sự phát triển của ngành, nguồn nhân lực du lịch cũng được quan tâm phát triển cả về số lượng và chất lượng. Dựa trên các tiêu chí trong nội dung phát triển nguồn nhân lực du lịch: số lượng, chất lượng, cơ cấu, thực trạng nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh sẽ được phân tích theo số lượng trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu độ tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, từ đó thấy được chất lượng nguồn nhân lực. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung chủ yếu vào đội ngũ lao động trực tiếp phục vụ du lịch.

2.2.1. Số lượng nhân lực du lịch

Trong thời gian từ 2001 đến 2006, số lượng nhân lực du lịch, cả trực tiếp và gián tiếp, không ngừng tăng lên. Năm 2006, tổng số nhân lực du lịch của Quảng Ninh khoảng 53.000 người, trong đó lao động trực tiếp khoảng

18.000 người, chiếm 34% tổng số lao động và lao động gián tiếp là 35.000 người, chiếm 66% tổng số lao động.

Bảng 2.2. Số lượng nhân lực du lịch Quảng Ninh

Đơn vị: người


Chỉ tiêu

Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Tổng số lao động

28.500

34.500

41.400

46.500

50.000

53.000

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 20/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí