ngoài ; Xã hội hoá hoạt động đào tạo.
1.3.4. Yêu cầu về thể lực và phẩm chất đạo đức
Thể lực là yêu cầu quan trọng để có thể đảm bảo hiệu quả công việc. Ngành du lịch là ngành dịch vụ có cường độ lao động trực tiếp cao, đồng thời còn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí lực, biến tri thức thành sức mạnh vật chất và tham gia vào lực lượng sản xuất xã hội. Nhân lực du lịch cần có các phẩm chất đạo đức của lao động mới xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập thế giới và khu vực như: tính kỷ luật, tự giác, tính chính xác (về giờ giấc), tính chủ động, sáng tạo, bên cạnh đó đội ngũ nhân lực cần có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm với khách du lịch, cộng đồng, xã hội…
1.3.5. Yêu cầu về cơ cấu
Cơ cấu nguồn nhân lực thể hiện mối tương quan giữa những nhóm người lao động có cùng một dấu hiệu chung trong một tổ chức hoặc xã hội. Cơ cấu lao động hợp lý sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Trong du lịch, lĩnh vực hoạt động mang tính tổng hợp, liên ngành nhiều lĩnh vực, việc xác định cơ cấu lao động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phục vụ, cung cấp sản phẩm cho nhu cầu đa dạng của du khách.
Cơ cấu nguồn nhân lực trước hết được hiểu là cơ cấu giữa các loại lao động tương ứng với các ngành nghề, vị trí công việc trong du lịch. Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch đòi hỏi phải có sự hợp lý giữa các loại lao động theo yêu cầu phát triển của doanh nghiệp, đồng thời giữa các không gian lãnh thổ du lịch nhằm khai thác có hiệu quả nhất các tài nguyên du lịch trên các vùng lãnh thổ đó.
Hầu hết các hoạt động như: tuyển dụng, thử việc, tạo thêm việc làm mới, cho nghỉ việc, giãn việc, nghỉ hưu, thậm chí cả những việc nghiên cứu,
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh - 1
- Phát triển nguồn nhân lực du lịch Quảng Ninh - 2
- Đặc Điểm Của Nhóm Lao Động Chức Năng Sự Nghiệp Ngành Du Lịch
- Thực Trạng Phát Triển Nhân Lực Du Lịch Tại Quảng Ninh
- Trình Độ Của Nguồn Nhân Lực Du Lịch
- Thực Trạng Công Tác Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Tại Quảng Ninh
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
giáo dục và đào tạo… đều tác động đến thị trường lao động nhằm đạt được cơ cấu lao động tối ưu, phù hợp với nhu cầu cụ thể về nhân lực của ngành.
Có thể xác định cơ cấu lao động trong du lịch theo một số tiêu chí: Cơ cấu theo độ tuổi, giới tính, theo lĩnh vực và nghiệp vụ phục vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các dịch vụ khác), theo chức năng (quản lý, phục vụ trực tiếp…), theo trình độ (đại học, cao đẳng, trung học, nghề), theo không gian, vùng miền. Cơ cấu lao động phải đảm bảo hợp lý, cơ cấu ngành nghề đào tạo phải phù hợp với nhu cầu ngành nghề trong thực tế.
1.3.6. Một số yêu cầu khác
Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt và được hưởng lợi từ tài nguyên nhưng cũng gây hại cho tài nguyên trong quá trình khai thác và phát triển. Hiện nay khi vấn đề phát triển bền vững là một trong những yêu cầu đặt ra đối với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong quá trình phát triển trong đó có du lịch thì yêu cầu đối với nguồn nhân lực du lịch là phải có ý thức và khả năng thực thi các hoạt động cụ thể nhằm bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững, đồng thời có khả năng hướng dẫn du khách và cộng đồng dân cư tham gia vào hoạt động này, kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại, văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây trên nền tảng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.4. Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch
1.4.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực nói chung
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự phát triển của nền kinh tế tri thức, vấn đề phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã áp dụng nhiều chính sách phát huy nguồn nhân lực, lao động lành nghề, lao động chất xám để tạo
ra hàm lượng trí tuệ cao, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội như: Văn kiện đại hội Đảng VII: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, văn kiện đại hội Đảng VIII: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững”, văn kiện đại hội Đảng IX: “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta có nhiều cơ hội để tăng trưởng và phát triển kinh tế từ đó tạo cơ sở vật chất và nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội công bằng và tiến bộ, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức do nước ta xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển thấp, tư duy còn nặng tính tiểu nông.
Để phát huy những lợi thế và vượt qua các khó khăn, cần thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ, nhiều chiến lược, chính sách phù hợp, một trong số đó là vấn đề phát triển nguồn nhân lực, tập trung vào:
Đổi mới tư duy về phát triển nguồn nhân lực và nâng cao sức cạnh tranh của người lao động trong đó chú trọng công tác giáo dục, đào tạo nghề theo hướng xã hội hoá và đa dạng hoá hình thức đào tạo, nâng cao sức khoẻ, năng suất, chất lượng làm việc và tăng thu nhập cho người lao động.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực đã qua đào tạo và có chính sách khuyến khích họ phát triển tài năng, tăng cường áp dụng khoa học công nghệ hiện đại…
Xây dựng và thực hiện quy hoạch hệ thống đào tạo, nâng cao hiệu quà hệ thống cung ứng dịch vụ việc làm và có chính sách ưu đãi, khuyến khích họ trong công tác phát triển nguồn nhân lực.
Tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
1.4.2. Quản lý phát triển nguồn nhân lực du lịch
1.4.2.1. Hệ thống tổ chức quản lý về phát triển nguồn nhân lực du lịch
Hệ thống tổ chức quản lý về phát triển nguồn nhân lực du lịch bao gồm chủ thể và khách thể quản lý được phân cấp theo thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và vai trò, vị trí của mỗi nhân tố trong hệ thống quản lý.
Ở Trung ương, tổ chức quản lý về phát triển nguồn nhân lực du lịch được phân thành các đầu mối quản lý do các cơ quan quản lý Nhà nước đảm nhiệm. Bộ Giáo dục - Đào tạo quản lý Nhà nước về giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục đào tạo du lịch; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có chức năng quản lý Nhà nước về lao động và đào tạo nghề; Tổng cục Du lịch có chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Du lịch.
Ở địa phương, theo phân cấp quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực du lịch ở địa phương gồm: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Du lịch (Sở Du lịch - Thương mại…), Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Nội vụ.
Cấp cơ sở: là bộ phận quản lý phát triển nguồn nhân lực của mỗi tổ chức, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch (thường là phòng Tổ chức hành chính, phòng Nhân sự…).
Hệ thống đào tạo là những cơ sở đào tạo, đơn vị nghiên cứu thường xuyên cung cấp dịch vụ đào tạo, nghiên cứu phục vụ cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch, bao gồm đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng cho xã hội và theo yêu cầu của các tổ chức đơn vị trong ngành Du lịch.
Đội ngũ chuyên gia, giáo viên, giảng viên: Là lực lượng lao động cung cấp dịch vụ tư vấn, kinh nghiệm, chất xám, thực hiện việc giảng dạy, huấn luyện, trực tiếp tác động vào quá trình nâng cao năng lực cho người học.
Người học: Là hạt nhân trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, là những người đang và sẽ làm việc trong ngành Du lịch hay học sinh, sinh viên trong các cơ sở đào tạo về du lịch.
1.4.2.2. Hệ thống chính sách, khuôn khổ pháp lý về phát triển nguồn nhân lực du lịch
Hệ thống chính sách và pháp lý có ảnh hưởng trực tiếp tới cung và cầu lao động du lịch và cần xuất phát từ đường lối, chính sách chung của Nhà nước. Du lịch phát triển ở một địa phương dẫn tới thu hút một lượng lớn lao động với đủ lứa tuổi tham gia. Việc quy định chặt chẽ về độ tuổi lao động của luật pháp sẽ góp phần làm hạn chế bớt lao động không nằm trong độ tuổi được phép.
Du lịch là ngành mang tính thời vụ rõ rệt, cần nhiều lao động làm việc mang tính nhất thời. Vì vậy, việc quy định chặt chẽ các vấn đề liên quan đến tuyển dụng và hợp đồng lao động sẽ làm hạn chế khả năng cung cầu đối với loại lao động không thường xuyên này.
Xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cho lao động trong ngành du lịch. Đối với một số lao động đặc thù trong ngành du lịch, các quy định nghề nghiệp sẽ làm hạn chế khả năng cung của những loại lao động này, đồng thời nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ lao động, hỗ trợ cho công tác tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công việc phù hợp. Chẳng hạn, hướng dẫn viên du lịch cần có thẻ hành nghề hướng dẫn viên, nhân viên bàn, bar, bếp phải đảm bảo các quy định về nghiệp vụ, tiêu chuẩn vệ sinh cá nhân, sức khoẻ…
Việc ban hành và hướng dẫn chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần cho lao động trong lĩnh vực du lịch là cần thiết, tạo điều kiện cho người lao động yên tâm công tác, phát huy được kỹ năng nghề nghiệp…
Trong ngành Du lịch, lực lượng lao động nữ thường chiếm tỷ lệ lớn, việc đưa ra các quy định, chính sách đãi ngộ là cần thiết để đảm bảo vấn đề về bình đẳng giới cũng như đảm bảo những quyền lợi của lao động nữ. Bên cạnh đó việc sử dụng lao động quốc tế trong lĩnh vực du lịch khá phổ biến. Điều này liên quan tới vấn đề nhập khẩu lao động, từ đó cần có các quy định cụ thể về vấn đề lao động quốc tế.
Như vậy, việc có một hệ thống chính sách Nhà nước gắn với phát triển nguồn nhân lực là cần thiết, gồm: Chính sách về quản lý phát triển nhân lực du lịch, quy định những tiêu chuẩn nghề nghiệp du lịch, chương trình đào tạo chuyên ngành; Chính sách về giáo dục - đào tạo du lịch: Quy định về cơ sở đào tạo du lịch, chương trình đào tạo, tiêu chuẩn giáo viên, chế độ đối với giáo viên, người học; Chính sách về lao động du lịch: Quy định chế độ làm việc, chế độ đãi ngộ.
1.4.2.3. Quản lý Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho du lịch
Thứ nhất, đó là nắm bắt nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nhân lực. Việc nấm bắt nhu cầu đào tạo là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nhân lực du lịch, giúp các cơ sở đào tạo xác định được mục tiêu đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế, đem lại một số lợi ích như: công việc phù hợp cho người lao động, nhân lực phù hợp cho yêu cầu của doanh nghiệp, nâng cao uy tín của cơ sở đào tạo.
Thứ hai, định hướng cơ cấu đào tạo hợp lý cho các ngành nghề, vị trí công việc trong du lịch nhằm đảm bảo hiệu quả về kinh tế - xã hội, tránh tình trạng mất cân bằng cung cầu trong thị trường lao động, tránh tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” hoặc “dở thầy, dở thợ”. Cơ cấu đào tạo cần đào tạo đồng bộ từ nhân viên phục vụ đến cán bộ quản lý…, đào tạo ở các bậc khác nhau.
“Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới (đặc biệt là các nước EU) và của nhiều chuyên gia du lịch cho thấy định hướng Nhà nước về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực được coi là hợp lý và có hiệu quả, góp phần thúc đẩy
du lịch phát triển với mức tăng trưởng cao, có thể áp dụng được là cơ cấu đào tạo theo tỷ lệ 5 : 10 : 85. Nghĩa là cứ 100 người thì trong đó:
5 người là lao động lãnh đạo quản lý - chủ yếu tập trung đào tạo ở các trường đại học;
10 người là lao động chuyên viên kinh tế hoặc kỹ thuật - tập trung đào tạo ở các khoa, trường chuyên ngành khách sạn và du lịch;
85 người là lao động trực tiếp phục vụ khách du lịch - đào tạo ở các trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề hoặc trường công nhân kỹ thuật.” [9, 164] Thứ ba, thống nhất chuẩn hóa, giám sát việc xây dựng và vận dụng chương trình đào tạo. Mỗi nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh du lịch đều yêu cầu có một kỹ năng nhất định và mang tính chất đặc trưng, vì vậy cần làm rõ nhiệm vụ, chức năng của mỗi nghề làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo. Công tác quản lý và chuẩn hóa chương trình đào tạo cần được đẩy lên tầm tiêu chuẩn quốc tế, thuận lợi hơn cho hoạt động hợp tác quốc tế và hội nhập về
đào tạo nhân lực du lịch.
Thứ tư, đầu tư xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo và xác định các hình thức đào tạo phù hợp.
Bên cạnh đó cần quản lý tốt công tác tuyển sinh đầu vào, quan tâm đến đội ngũ giáo viên, sự đầu tư thỏa đáng về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị dạy học, thực hành..., điều kiện thực tế, thực tập…
1.5. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với hoạt động du lịch
Có thể nói, nguồn nhân lực là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của mỗi ngành kinh tế, mỗi tổ chức xã hội nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong quá trình phát triển ở mỗi giai đoạn nhất định. Nếu như trước kia, sự giàu có, sức mạnh của một quốc gia, dân tộc thường đồng nghĩa với sự phong phú của các nguồn tài nguyên, nguồn lực vật chất thì trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với cuộc cách mạng khoa học
công nghệ như hiện nay, quan niệm về sự giàu có đã thay đổi, đất nước nào giàu tài nguyên trí tuệ là đất nước giàu có và vững mạnh. Nguồn nhân lực là động lực của phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Du lịch là ngành dịch vụ với những đặc trưng riêng có so với các ngành kinh tế khác, phụ thuộc nhiều hơn vào yếu tố con người. Các dịch vụ du lịch chủ yếu do con người cung cấp trực tiếp cho khách, chất lượng của sản phẩm dịch vụ du lịch do yếu tố con người quyết định. Khác với một số ngành kinh tế khác, hoạt động du lịch khó có thể cơ khí hoá, tự động hoá mà phần lớn được thực hiện bởi trực tiếp người lao động. Nếu thiếu vai trò của người phục vụ du lịch ở một trong những khâu phục vụ thì hoạt động du lịch không thể thực hiện được.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. Phát triển nguồn nhân lực du lịch sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, đem lại lợi ích nhiều mặt cho hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng và nền kinh tế - xã hội nói chung.
Phát triển nhân lực du lịch là đầu tàu trong việc nghiên cứu, hoạch định chính sách thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Phát triển nguồn nhân lực du lịch đảm bảo đủ về số lượng, tốt về chất lượng và cơ cấu hợp lý với đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà nghiên cứu, chuyên gia giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, những doanh nhân năng động, những nhà lãnh đạo quản lý giỏi, có tầm nhìn chiến lược cùng với đó là đạo đức nghề nghiệp, tinh thần yêu nước, trách nhiệm của đội ngũ lao động du lịch là điều kiện để đảm bảo “phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” như Đảng và Nhà nước ta đã xác định.
Trong ngành du lịch còn nhiều công việc không cần các kỹ năng chuyên nghiệp hoặc yêu cầu trình độ chuyên môn kỹ thuật không cao nên nhân viên chỉ