Nền Kinh Tế Tri Thức Là Nền Kinh Tế Hậu Công Nghiệp


Như vậy, từ những luận điểm nêu trên có thể thấy, kinh tế tri thức là hệ quả tất yếu của ba quá trình: quá trình phát triển kinh tế thị trường và thương mại thế giới, quá trình toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, gắn quyện nhau, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau, dẫn tới sự ra đời và phát triển nền kinh tế tri thức toàn cầu.

1.2.4 Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức

Nhà kinh tế Peter Drucker, một trong những người đi tiên phong nghiên cứu về tri thức và xã hội tri thức, đã nói một cách khái quát về xã hội tri thức, nền kinh tế tri thức như sau: "Ngày mai sẽ đến gần hơn là chúng ta nghĩ.….Xã hội sắp tới đó là xã hội tri thức. Tri thức sẽ là nguồn lực chủ chốt nhất, và công nhân tri thức trở thành bộ phận quan trọng nhất trong lực lượng lao động ".[105]

Nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức của OECD; APEC; EU, cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác như Carl Dahlman, Don Tapscott, Daniel Bell, Diale Coyle, L. Thurow, Ngô Quí Tùng [37], v.v... đã có nhiều phân tích, chứng minh về những khác biệt cơ bản của nền kinh tế tri thức so với nền kinh tế công nghiệp truyền thống. Tuy các công trình nghiên cứu nói trên có những điểm nhìn nhận không giống nhau, nhưng từ đó cho ta những phân tích tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đến sự phát triển xã hội cũng có thể dễ nhận thấy các đặc trưng, các khác biệt cơ bản của nền kinh tế tri thức so với nền kinh tế công nghiệp truyền thống. Kết hợp với nhận thức và những khái niệm nêu trên, có thể rút ra những đặc điểm nổi bật sau :

1.2.4.1 Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế hậu công nghiệp

Kinh tế tri thức là một bước tiến mới của quá trình phát triển của kinh tế thế giới, Trong nền kinh tế tri thức, tri thức được sử dụng trong tất cả các ngành và giá trị do tri thức tạo ra chiếm phần lớn trong tổng giá trị sản phẩm của nền kinh tế. Do đó, nó chỉ thực sự hình thành và phát triển sau thời đại công nghiệp.

1.2.4.2 Công nghệ cao, ICT được ứng dụng rộng rãi và đóng vai trò đặc biệt quan trọng

Trong nền kinh tế tri thức, ICT được ứng dụng rộng rãi và theo xu hướng ngày càng sâu vào mọi lĩnh vực. Hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội đều dựa trên cơ sở ICT thông qua mạng thông tin điện tử, đều được tin học hoá, hay số hoá. ICT không chỉ là một lĩnh vực khoa học - công nghệ, một ngành kinh tế - kỹ thuật mà trở thành phương tiện chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, động lực quan trọng cho sự phát triển của tất cả các ngành, các lĩnh vực. Xã hội thông tin là tiền đề cho nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức cũng là nền kinh tế thông tin. Thương mại điện tử, chính phủ điện tử, làm việc từ xa, các văn phòng ảo, các tổ chức ảo, chữa bệnh trên mạng (chữa bệnh từ xa),


giáo dục từ xa… đang làm thay đổi hết sức sâu sắc cách thức sản xuất kinh doanh, cách thức tổ chức quản lý theo hướng tăng tốc độ, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Mạng Internet làm cho thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới làm cho hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động liên kết mang tính toàn cầu. Chi phí giao dịch sẽ giảm đi rất nhiều do thương mại điện tử có khả năng kết nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng, dẫn đến giảm thiểu nhiều khâu trung gian giữa các bên mua và bán. Kết quả quan trọng nhất của việc phát triển thương mại điện tử là sự hạ thấp những rào chắn và chi phí đi vào thị trường.

APEC đã tổng kết rằng internet đã làm cho giá thành trong ngành sản xuất ô tô giảm 12-15%, trong ngành xây dựng giảm 7-8%, do chi phí cho việc cung ứng linh kiện từ khắp nơi trên thế giới đã giảm đi đáng kể (chi phí cho lập một đơn hàng giao dịch qua internet giảm đi 10 lần). Thương mại điện tử đã làm lợi cho nền kinh tế Mỹ hàng nghìn tỷ USD. Tổ chức quản lý qua mạng điện tử nhanh nhạy hơn, hiệu lực hơn, các quyết định chính xác hơn, thúc đẩy phát triển dân chủ, công khai, minh bạch. Chính phủ điện tử kết hợp với cải cách hành chính sẽ làm tăng công năng và tác dụng các quyền và trách nhiệm của người dân sẽ giúp loại trừ được nạn phiền nhiễu, nạn tham ô, hối lộ....Phát triển hình thức học tập từ xa (giáo dục điện tử)...tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập suốt đời, không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng; thúc đẩy phát triển xã hội học tập. Chữa bệnh từ xa tạo điều kiện cho mọi người, nhất là từ những nơi xa xôi hẻo lánh có thể tiếp cận dễ dàng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chất lượng tốt, tiếp xúc được với bác sĩ giỏi, trong nhiều trường hợp cấp cứu khỏi phải đi xa...

Mạng thông tin còn là môi trường rất thuận lợi để trao đổi các ý tưởng mới, giúp nâng cao năng lực con người, là môi trường lý tưởng nhất cho phát triển năng lực sáng tạo, thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội. Mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế. Nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là kinh tế thông tin.

1.2.4.3 Nền kinh tế tri thức chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức

Đó là các ngành công nghiệp thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ...; mặt khác, do quá trình sản xuất hàng hoá trực tiếp được tự động hoá ở trình độ ngày càng cao, cho nên số người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy giảm đi rất nhiều, trong khi đó số người làm việc ở văn phòng tăng lên, thực chất các văn phòng này là những trung tâm, đầu mối xử lý, phân tích thông tin và biến những thông tin đó thành yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ giá trị gia tăng công


nghiệp công nghệ cao trong công nghiệp chế tạo đang tăng nhanh. Hiện nay, ở Mỹ và nhiều nước phát triển, tỷ lệ đó đã đạt khoảng 25-30%. Việc làm và thu nhập do khu vực công nghệ cao tạo ra đang tăng nhanh. Việc làm trong các ngành sản xuất và phân phối hàng hoá giảm đi rất nhiều và được thay thế bằng việc làm trong các văn phòng xử lý và phân phối thông tin được trang bị rất hiện đại. Từ 1980 đến 1998, riêng ở Mỹ, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã làm mất đi 44 triệu việc làm, nhưng đồng thời lại tạo ra 73 triệu chỗ làm việc mới, tức là đã tăng thêm 29 triệu việc làm. Ở nước Mỹ hiện nay, 93 triệu người lao động (80% lực lượng lao động) không phải giành thời gian để làm ra các vật phẩm, mà họ chuyển sang làm việc ở các văn phòng xử lý thông tin, cung cấp các dịch vụ cho người dân. Như vậy, nền kinh tế tri thức cũng có thể hiểu một cách đơn giản và gọi tên là nền kinh tế văn phòng, hay nền kinh tế công nghệ cao.

Xem xét cơ cấu kinh tế theo ba khu vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) thì xu thế phát triển kinh tế tri thức được thể hiện qua sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng tăng nhanh dịch vụ, giảm nông nghiệp (xem Bảng 1.1). Trong mấy thập kỷ qua, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dịch chuyển như sau:

Bảng 1.1 Cơ cấu kinh tế trong GDP của toàn cầu


Tỷ lệ trọng của các

khu vực trong GDP

1965

1980

1999

2003

2007

Tỷ lệ nông nghiệp (%)

10

7

5

4

2

Tỷ lệ công nghiệp (%)

40

37

34

33

26

Tỷ lệ dịch vụ (%)

50

56

61

63

72

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 6

Nguồn: Tổng hợp từ World Development Report 2003, 2009.

Riêng đối với nhóm nước thu nhập cao thì tỷ lệ tương ứng của khu vực nông ghiệp, công nghiệp và dịch vụ là: 2%, 26%,72%; ở Nhật tương ứng là : 2%, 30%, 68%; ở Mỹ là : 1%, 23%, 76% [157]. Do đó, cũng có người cho rằng nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dịch vụ.

1.2.4.4 Tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định

Điểm nhấn quan trọng là ở sự khác biệt chất lượng quyết định của nền kinh tế tri thức so với các nền kinh tế trước nó thay vì các nguồn lực truyền thống (tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ và vốn) - đã từng đóng vai trò là những lợi thế phát triển quyết định trước đây, trong nền kinh tế tri thức, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, tri thức, trí tuệ con người và kỹ năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết định nhất. Khoa học công nghệ được nhất trí thừa nhận là lực lượng sản xuất thứ nhất theo nghĩa là


yếu tố quan trọng và quyết định tiến trình phát triển kinh tế. Sự tạo ra của cải, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu là nhờ sử dụng tri thức mới, công nghệ mới. Hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức là thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức mới trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Giá trị sản xuất được tạo ra nhiều nhất là từ tri thức. Khi sử dụng nhiều công nghệ mới, tri thức quản lý mới, một hecta đất nông nghiệp có thể cho giá trị gấp nhiều lần mà chi phí vật chất không tăng, như thế giá trị gia tăng chủ yếu là do tri thức tạo ra; khi ngành cơ khí truyền thống chuyển lên tự động hoá, sử dụng CAD, CAM, CNC, quang điện tử... thì ngành đó trở thành ngành kinh tế tri thức... Các ngành sản xuất, dịch vụ sử dụng thương mại điện tử để mở rộng thị trường cũng trở thành ngành kinh tế tri thức. Còn trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghiệp phần mềm thì rõ ràng giá trị tạo ra chủ yếu là do tri thức, các chi phí vật chất không đáng kể, đó thực sự là những ngành kinh tế dựa vào tri thức. Trong các ngành kiến trúc, xây dựng, việc sử dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý để thay thế cho việc khảo sát thủ công, sử dụng công nghệ mô phỏng, tự động hoá trong thiết kế, sử dụng vật liệu mới, các thiết bị tự động hoá trong thi công cũng tạo ra giá trị gia tăng cao, giảm tiêu hao vật liệu, giảm hàm lượng lao động cơ bắp, các ngành đó đi theo hướng kinh tế tri thức.

Sự phát triển ngày càng dựa nhiều hơn vào tri thức cũng được thể hiện rõ nét ở sự gia tăng nhanh của năng suất lao động. Trong nửa thế kỷ qua (1960-2010) năng suất lao động ở Mỹ tăng 5,4 lần, ở Nhật tăng 12,1 lần, Đan Mạch 5,6 lần, Hà Lan 8 lần còn ở Thụy Điển là tăng 8,7 lần. Năng suất lao động tại Mỹ tăng không cao bởi vì tính tại thời điểm 1960 thì nước Mỹ đã có xuất phát điểm về năng suất lao động cao hơn các quốc gia kể trên, tuy nhiên ở Nhật, Đức, Thụy Điển, Hà Lan với xuất phát điểm về năng suất lao động thấp nhưng nhờ tiến trình đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức đã tạo lập được tốc độ tăng năng suất lao động rất cao, đuổi kịp và vượt Mỹ. Hiện tượng Hàn Quốc cho thấy những năm 1985 năng suất lao động mới chỉ là 23.0 (điểm quy đổi) thì năm 2008 là 159,9 điểm quy đổi và được xem như quốc gia có năng suất lao động tăng cao và vượt những nước phát triển khác. Hình 1.5 trang bên cho minh họa rõ nét sự gia tăng năng suất lao động.

Trong nền kinh tế tri thức, giá trị gia tăng được tạo ra chủ yếu là do những yếu tố vô hình như sáng chế, phát minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, dịch vụ tài chính, quản trị kinh doanh... Giá trị gia tăng do các yếu tố đầu vào là nguyên liệu, năng lượng ngày càng giảm đi. Ví dụ : một sản phẩm vi mạch tích hợp cao, hàm lượng nguyên liệu, năng lượng chỉ chiếm từ 2% - 5%; 95% - 98% còn lại là sự kết tinh của lao động trí tuệ và chất xám. Hiện nay, giá trị của các tài sản vật chất của các công ty ở Mỹ và châu Âu nói chung chỉ bằng


25% tổng giá trị của công ty, . Phần lớn giá trị của các công ty này phản ánh các yếu tố vô hình kể trên (Công ty Microsoft của tỷ phú Mỹ Bill Gates là một ví dụ).


Hình 1.4 So sánh năng suất lao động giờ công giai đoạn 1990-2008 Mỹ 2002 = 100

Hình 1.5 So sánh năng suất lao động giờ công giai đoạn 1990-2008 Mỹ 2002 = 100

Năng suất




























































Mỹ

Nhật

Hàn Quốc




















Singapore

Đài Loan


80.0

Đan Mạch





















Pháp


60.0

Đức

Hà Lan





















Na Uy

40.0

Thụy Điển





















àn Quốc


20.0




















160.0


140.0


120.0



100.0

Na Uy







H


0.0 1990 1995 2000 2005 2008 Năm


Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ lao động Mỹ, Phòng Thống kê Lao động, 10/2009, http://www.bls.gov/fls/ #productivity)

Tỷ lệ giá trị do tri thức tạo ra so với tổng GDP là một chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức. Những phân tích trên có thể hiểu như sau:

Thứ nhất, ngày nay, thay vì các yếu tố vật chất - kỹ thuật truyền thống (máy móc cơ khí, đường sắt, ruộng đất, hầm mỏ), con người trí tuệ và có kỹ năng cao đang trở thành lực lượng sản xuất quan trọng nhất, quyết định thành công của nỗ lực phát triển. Tưong ứng với sự thay đổi này là sự thay đổi trong trật tự ưu tiên của các nỗ lực phát triển: để giành thắng lợi trong cuộc đua tranh phát triển toàn cầu, chiến lược khôn ngoan nhất, có triển vọng nhất trong dài hạn chính là giành ưu tiên cao nhất cho nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực theo hướng mà nền kinh tế tri thức quy định. Đó là nguồn nhân lực trí tuệ (nhân lực khoa học công nghệ, trí thức), là lực lượng lao động kỹ năng cao.

Thứ hai, vì tri thức và công nghệ cao đóng vai trò là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, do tri thức, kỹ năng, nguồn phát minh và công nghệ hiện đại đã trở thành lợi thế cạnh tranh quyết định nên một cách hiển nhiên, việc nâng cao năng lực sáng tạo và sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ trở thành nhiệm vụ trọng tâm nhất của nỗ lực phát triển. Công thức “ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sản xuất”, mà V.I.Lênin đề ra trước đây và được các nước xã hội chủ nghĩa (cũ) vận dụng


trong suốt mấy chục năm tồn tại của mình trong thời đại hiện nay đã mang những nội dụng rất mới: sản xuất và sử dụng tri thức khoa học và công nghệ cao là loại hình sản xuất quan trọng nhất, quyết định nhất. Diễn đạt một cách khác, điều đó có nghĩa là để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, đua tranh phát triển, trước hết phải tạo ra lợi thế cạnh tranh quyết định. Đó là lợi thế về tri thức và kỹ năng lao động, là lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao (trí tuệ). Các lĩnh vực đã từng là quan trọng nhất ở các giai đoạn trước (ví dụ như luyện kim, cơ khí, hóa chất…), đặt trong lôgic của nền kinh tế tri thức, chỉ còn đóng vai trò là những nhiệm vụ quan trọng thứ cấp và tương đối ngắn hạn so với nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ.

1.2.4.5 Cấu trúc mạng lưới toàn cầu

Nền kinh tế thế giới hiện đại đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn cầu. “Mạng” là thuộc tính phân biệt chủ yếu hệ thống này với hệ thống trước. Về bản chất, hệ thống mạng được cấu trúc “ngang”, khác căn bản với nền kinh tế trước đây vận động trong cấu trúc chủ đạo là hình tháp (cấu trúc “dọc”). Đây là cơ sở để nói đến tính cách mạng hay bước ngoặc lịch sử của quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức đang diễn ra.

Mạng lưới toàn cầu của nền Kinh tế tri thức được kiến tạo bởi: Các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trước, những công cụ mới, ví dụ máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, các loại vật liệu mới, công nghệ “gen”, thương mại điện tử….Những nhân vật mới, tầng lớp các nhà kỹ trị đóng vai trò quyết định, người lao động trí thức, các “siêu” công ty xuyên quốc gia… vận động theo nguyên lý mới;

Hệ thống phân công lao động quốc tế toàn cầu thay cho hệ thống phân công lao động quốc gia. Đây là một cấu trúc mới về nguyên tắc. Nó vận dụng theo những quy tắc sản xuất thương mại và tài chính mới trong không gian toàn cầu hóa. Đặc trưng của không gian toàn cầu hóa là thời gian ngắn lại, không gian thu hẹp và các đường biên giới mất dần;

Quá trình phi tập trung hóa cấu trúc kinh tế xã hội. Cấu trúc mạng gắn với quá trình phi tập trung hóa cấu trúc. Quá trình đô thị hóa diễn ra theo những xu hướng và quy tắc mới. Các đô thị khổng lồ còn là sự lựa chọn duy nhất và dường như ngày càng không phải là sự lựa chọn chủ yếu. Khái niệm văn phòng, chỗ làm việc tập trung hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người kiểu công xưởng đã thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ yếu của xã hội là sản xuất tri thức, được tiến hành trong môi trường tự động hóa cao trên cơ sở mạng thông tin, với các công cụ chính là máy vi tính nối mạng;

Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế. Hình thái phát triển dựa trên quan hệ lệ thuộc – cai trị của các nền kinh tế trước đây được thay thế bằng quan hệ tham dự -


bình đẳng về chức năng cơ cấu của các thành tố. Lực lượng nắm giữ tri thức sẽ là động lực phát triển của xã hội và là tầng lớp quyết định vận mệnh của mỗi dân tộc;

Sự không thuần nhất cấu trúc của nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu. Trong mạng lưới kinh tế toàn cầu, vẫn tồn tại những mảng, vùng cấu trúc (khu vực, quốc gia, ngành) có trình độ phát triển thấp xa các mảng, vùng khác. Do đó, sự bình đẳng về nguyên tắc của các bộ phận cấu trúc mạng không có nghĩa là sự bình đẳng trên thực tế giữa chúng tại từng thời điểm xác định và trong những quan hệ xác định.

Ngày nay, một chiếc máy tính hay điện thoại, hay một chiếc xe hơi có thể được lắp ráp tại Trung Quốc, tuy nhiên tranh thiết bị và linh kiện điện tử, động cơ thì được chế tạo tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu, Đĩa cứng máy tính thì được lắp ráp tại Việt Nam…. Thiết kế của những con chíp, trang thiết bị,…thì xuất phát từ Châu Âu, Mỹ, Nhật. Những thành phẩm chế tạo tại Trung Quốc, Việt Nam lại xuất khẩu trở lại các quốc gia mà trước đó là địa chỉ xuất xứ của các trang thiết bị rời, linh kiện….Điều này thể hiện ở những điểm cụ thể sau:

Thứ nhất, khả năng vượt bỏ hay tụt hậu của mỗi quốc gia (hay bất cứ yếu tố cấu trúc nào) tùy thuộc vào vị trí - vị thế của nó trong mạng kinh tế toàn cầu, tức là tùy thuộc vào khả năng xác lập quan hệ với các nhân vật mới, công cụ mới để có được các điều kiện phát triển (các lợi thế phát triển do thời đại tạo ra). Có thể diễn đạt điều này như là năng lực “hòa” (hay “nhập”) mạng chủ thể đó. Điều đó có nghĩa rằng muốn phát triển thì phải gia nhập mạng toàn cầu, phải trở thành thành viên (yếu tố cấu trúc) của mạng.

Thứ hai, việc gia nhập mạng hàm chứa khả năng phải chịu “rủi ro” toàn cầu. Sự rủi ro này có nguồn gốc từ tính không thuần nhất của cấu trúc mạng (vị thế không tương đương của các yếu tố) – nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng thực tế giữa các yếu tố khi tham gia mạng. Trình độ phát triển càng cách xa trình độ chung của mạng thì độ rủi ro càng lớn. Song kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng trong khi những rủi ro do tham gia mạng gây ra là mang tính tiềm thế thì rủi ro do không tham gia mạng là chắc chắn và lớn hơn bất kỳ rủi ro nào do tham gia mạng.

Điểm nhấn vào đặc điểm cấu trúc mạng toàn cầu của nền kinh tế tri thức là việc xác lập vị thế trong mạng và nâng cao năng lực “nhập” mạng phải được coi là những điểm trọng yếu nhất của nỗ lực phát triển trong cấu trúc kinh tế tri thức - mạng toàn cầu.

1.2.4.6 Tốc độ biến đổi rất nhanh của công nghệ và nhanh chóng ứng dụng trong các ngành sản xuất

Kinh tế tri thức có đặc điểm quan trọng là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân. Theo một số tính toán hiện nay, lượng tri thức của loài


ngưòi được nhân đôi sau mỗi 15 năm và với cấp độ chất lượng khác hẳn. Cách đây 100 năm, để làm việc đó, loài người cần gấp hơn 3 lần thời gian đó. Càng lùi vào quá khứ thì quãng thời gian nhân đôi tri thức càng lớn, đo bằng thế kỷ và thiên niên kỷ.

Tuy nhiên, trong nền kinh tế tri thức, tốc độ hao mòn vô hình tăng lên theo xu hướng ngày càng nhanh, cái có giá trị nhất là “cái chưa biết”, cái đã biết, đã được sử dụng thì mất dần giá trị. Tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra cái mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế. Vòng đời công nghệ, sản phẩm từ lúc mới nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn. Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ưu hoá, tức là hoàn thiện cái đã có, để giảm chi phí sản xuất, còn trong kinh tế tri thức thì quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Sự phát triển kinh tế là do sự không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Do đó, nền kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động rất nhanh, “làm việc và kinh doanh theo tốc độ của tư duy”. Các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới (ở nước Mỹ hiện nay, mỗi năm có khoảng 40% doanh nghiệp đổi mới công nghệ); số doanh nghiệp cũ bị phá sản rất nhiều nhưng số doanh nghiệp mới dựa vào sáng chế, công nghệ mới, sản phẩm mới, nhất là doanh nghiệp khoa học hay doanh nghiệp sáng tạo tăng lên rất nhanh; số chỗ làm việc cũ mất đi nhiều, nhưng số chỗ làm việc mới được tạo ra còn nhiều hơn; tổng số chỗ làm việc không ngừng tăng lên. Tại Mỹ, từ năm 1993 đến năm 1996, gần 40 vạn doanh nghiệp vừa và nhỏ có tốc độ phát triển trên 20% mỗi năm đã tạo ra hơn 70% việc làm mới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này sẽ làm chủ nền kinh tế mới.

Phát minh, chế tạo và sản xuất ra các công nghệ mới trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức. K. Marx đã dự báo: “Phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”[3,tr.367] Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, tăng trưởng và việc làm. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất công nghệ (cũng có thể gọi là doanh nghiệp tri thức) phát triển rất nhanh. Trong các doanh nghiệp đó, khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Từ thực tế đó, ở các nước đã xuất hiện các khu công nghệ cao tập trung các doanh nghiệp nghiên cứu và sản xuất công nghệ mới. Đây là nơi biến các tri thức mới, các phát minh khoa học thành công nghệ và thành sản phẩm, đó là những “hạt nhân” của nền kinh tế tri thức [91].

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí