Tiềm Năng Và Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Nông Nghiệp Ở Thành Phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng‌


nguyên du lịch với lợi thế rừng, biển, sông, hồ, hệ thống di tích văn hóa, lịch sử, làng nghề.

Với các đặc điểm thuận lợi để phát triển DLNN, Đông Nam Bộ không ngừng vươn lên với các sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng. Tiêu biểu phải nói đến là điểm đến thu hút du khách nhất là Khu Nông nghiệp Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh (huyện Củ Chi) với diện tích 88 ha, tập trung các hoạt động nghiên cứu, sản xuất giống rau, hoa, cá kiểng đào tạo, chuyển giao và du lịch. Mỗi năm điểm du lịch này đón hơn

30.000 khách du lịch, chủ yếu là sinh viên chiếm 70%. Du khách đến đây sẽ được trải nghiệm cảm giác mới lạ từ nông nghiệp như: trao đổi với các chuyên gia về kỹ thuật nhân giống, trồng và chăm sóc hoa lan; kỹ thuật sản xuất các chế phẩm sinh học; tham quan hệ thống nhà màng, nhà lưới điều khiển tự động, chăm sóc rau ăn quả...

Một điểm đến DLNN nữa không thể không nhắc đến là Long An, là tỉnh có vị trí, điều kiện tự nhiên phù hợp phát triển nhiều loại nông sản hàng hóa, trong đó, nông nghiệp công nghệ cao đang trở thành kênh đầu tư hấp dẫn, với sự đón đầu của xu thế phát triển kết hợp với du lịch vườn sinh thái. Long An đã kết hợp hài hòa giữa ngành du lịch và nông nghiệp tạo nên một chuỗi giá trị, nhằm phát triển bền vững trong nông nghiệp có du lịch và ngược lại du lịch dịch vụ không tách rời hỗ trợ phát triển xây dựng quảng bá hình ảnh sản phẩm nông nghiệp hiệu quả hơn, tăng giá trị sản phẩm đầu ra của nông nghiệp.

Đặc biệt đẩy mạnh phát triển du lịch điển hình các dự án như: Khu nghiên cứu bảo tồn và phát triển dược liệu Đồng Tháp Mười, Làng cổ Phước Lộc Thọ, Khu du lịch sinh thái Làng nổi Tân Lập, Khu Ramsar bảo tồn đất ngập nước Láng Sen…. Mô hình này cũng quảng bá hình ảnh sản phẩm nông nghiệp nói riêng và Long An đến với mọi miền lãnh thổ và ra thế giới.

Ngoài những khu du lịch kể trên, Long An còn là địa điểm chăn nuôi gà, vịt điển hình với số lượng lớn, rất thích hợp cho việc tham quan, học hỏi của khách du lịch. Du khách có thể trải nghiệm những công việc hằng ngày của người nông dân như tận tay cho gia cầm ăn hoặc có thể thưởng thức các món ăn được chế biến từ những nguyên liệu sẵn có. Điều đặc biệt, du khách có thể tự chọn bất kì con gà hoặc vịt nào để mang về làm quà.


Trong năm 2016, Long An đón được 910.000 lượt khách, tăng 13% so với cùng kỳ, trong đó khách quốc tế là 12.000 lượt khách, tăng 23% so với cùng kỳ. Tổng doanh thu du lịch đạt khoảng 410 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ, chiếm 0,3% lĩnh vực thương mại, dịch vụ của tỉnh.

Tuy nhiên, những địa phương nói trên mới chỉ dưới dạng những hoạt động mang dáng dấp du lịch nông nghiệp, rất lẻ tẻ và mang tính tự phát. Trong khi đó, các dịch vụ và sản phẩm phục vụ loại hình du lịch này năm nay qua năm khác vẫn không có gì thay đổi, trở nên quá nhàm chán với du khách.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.


Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã tổng hợp lại một số khái niệm có liên quan, đặc điểm, các nguyên tắc và một số nhân tố có ảnh hưởng đến DLNN. Đồng thời cũng nêu ra được lịch sử phát triển DLNN của một số nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đặc biệt là kinh nghiệm phát triển của vùng Đông Nam Bộ. Bên cạnh đó, DLNN – một hướng đi mới cho việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp một cách nhanh chóng, cũng là hướng đi mới cho ngành du lịch của Việt Nam.

Dựa trên cơ sở lí luận về DLNN ở chương 1 để đặt nền móng cho việc nghiên cứu vấn đề thực tiễn ở chương 2 và 3 một cách khoa học và đúng đắn.

34 Chương 2 TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH 1

34


Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG‌

2.1. Khái quát chung về thành phố Đà Lạt‌

2.1.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ‌

Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, cách Tp. Hồ Chí Minh 293 km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 1.481 km về phía Bắc, cách thành phố Nha Trang 205 km. Tọa độ địa lí được xác định như sau:

- Điểm cực Bắc: 12o04' độ vĩ Bắc.

- Điểm cực Nam: 11o52' độ vĩ Bắc.

- Điểm cực Tây: 108o20’ độ kinh Đông.

- Điểm cực Đông : 108o35’ độ kinh Đông.

Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Diện tích tự nhiên: 424 km2.

Dân số 223.000 người (năm 2016). Trong đó, dân số sống ở khu vực thành thị là 89,25%, sống ở các khu vực nông thôn là 10,75%. Mặt bằng dân trí trong những năm gần đây được nâng lên đáng kể nhưng vẫn còn có khoảng cách nhất định giữa cư dân sống ở khu vực thành thị và nông thôn. Cấu trúc dân số theo giới tính, nam chiếm 49%, nữ 51%.

2.1.2 . Các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Đà Lạt‌

* Về tự nhiên

- Địa hình: Bề mặt địa hình và địa khối Đà Lạt đã có từ lâu đời, cách đây cả trăm triệu năm, nhưng so với niên đại địa chất thì nó tương đối trẻ. Địa hình Đà Lạt thuộc dạng sơn nguyên với độ cao trung bình 1.520 m so với mực nước biển, nét đặc trưng của địa hình là mức độ phân cắt mạnh. Khu vực phía Bắc và Tây Bắc bị chắn bởi núi Lang Biang; phía Đông và Đông Nam thấp dần về thung lũng Đa Nhim; phía Tây và Tây Nam thấp dần về cao nguyên Di Linh. Địa hình Đà Lạt cũng là yếu tố quan trọng


góp phần vào quá trình feralit hóa. Hầu hết các vùng sản xuất nông nghiệp đều tập trung ở các thung lũng và triền núi thấp.

-Thổ nhưỡng: Đất đai có vị trí quan trọng trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt. Nó không không chỉ là chỗ dựa cho các ngành khoa học khác mà còn cung cấp thức ăn cho cây trồng và tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển. Và chính nó là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở tự nhiên sản sinh ra của cải vật chất.

Tại thành phố Đà Lạt, do diện tích đất bỏ hoang và rừng chiếm diện tích khá lớn nên diện tích đất nông nghiệp chỉ khoảng 12 nghìn ha, trong đó diện tích nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn là 5.493 ha chiếm 52,3% trên tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Đất đai ở đây chủ yếu là đất feralit đỏ vàng, tầng đất dày, chất hữu cơ nhiều, rất màu mỡ nên thích hợp để trồng các loại cây nông nghiệp, đặc biệt là rau và hoa.

- Khí hậu: Được mệnh danh là “sứ sở sương mù” nên thời tiết Đà Lạt mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm khoảng 180C. Bức xạ mặt trời dồi dào, chế độ nhiệt mát dịu, lượng mưa chủ yếu tập trung vào mùa hè, mùa đông khô cạn. Một ngày ở đây sẽ có đủ 4 mùa: Xuân, Hạ,Thu, Đông làm cho du khách rất thích thú khi thời tiết gây mê đắm lòng người. Sáng bắt đầu với buổi sáng rực tươi của mùa xuân, trưa lại chuyển sang mùa hè, chiều lại có chút gió thu nhẹ mơn man, tối đến thì lại hóa thân thành một công chúa mùa đông lạnh. Vì thế nên Đà Lạt chẳng để bất kì ai thất vọng khi có một không khí trong lành cùng với làn sương mờ lãng mạn ấy.

Thiên nhiên Đà Lạt không chỉ thuận lợi để phát triển kinh tế du lịch và hình thành trung tâm văn hóa mà còn tạo điều kiện để nền nông nghiệp có thể sản xuất được nhiều loại đặc sản nổi tiếng , đặc biệt là rau - củ - quả ôn đới. Rau hoa Đà Lạt đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước từ miền Bắc cho đến miền Nam.

- Thủy văn: Các sông suối trên cao nguyên do chảy qua nhiều loại đá khác nhau nên lòng sông có nhiều ghềnh thác. Giữa các dãy đồi thấp ở vùng trung tâm và các đỉnh núi cao chung quanh Đà Lạt là dòng chảy hiền hòa của các sông suối thượng nguồn sông Đa Nhim, sông Đạ Đờng, sông Cam Ly, những con sông này là các nhánh chính đổ vào sông Đồng Nai. Ở đây nguồn nước phong phú trong mùa mưa nhưng rất nghèo trong mùa khô.


- Sinh vật: Do đặc điểm về khí hậu và thổ nhưỡng nên sự phân bố thảm thực vật tự nhiên tại Đà Lạt rất phong phú và đa dạng với nhiều kiểu rừng khác nhau. Chúng vừa mang tính chất của thảm thực vật nhiệt đới ẩm, vừa mang tính chất của vùng á nhiệt đới ẩm. Trong đó, chiếm ưu thế là rừng lá kim với đặc trưng là rừng thông 3 lá.

* Về kinh tế - xã hội

- Thành phố Đà Lạt là trung tâm kinh tế - hành chính - xã hội của tỉnh Lâm Đồng bao gồm 16 đơn vị hành chính: 12 phường và 4 xã (Xuân Thọ, Xuân Trường, Trạm Hành, Tà Nung).

Vào những năm đầu thế kỉ XX, Đà Lạt chỉ có khoảng hơn 100 người Việt định cư tại đây và 30 năm sau (1923) dân số lên đến 1.500 người, 50 năm sau (1943) đạt

20.000 người. Nhưng tính đến hiện nay, dân số toàn thành phố là khoảng 223 nghìn người , mật độ dân số 568 người/ km2 (Niên giám thống kê, 2016).

- Phân bố dân cư của thành phố Đà Lạt không đồng đều. Dân cư tập trung chủ yếu ở các phường như: Phường 1, Phường 2, Phường 6, Phường 9. Còn ở các xã Xuân Thọ, Xuân Trường, Trạm Hành, Tà Nung dân số tập trung ở mức độ thấp. Đặc biệt, dân số tập trung đông ở phường 6 và phường 2 bởi vì các phường này nằm ở vị trí thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội của thành phố Đà Lạt.

- Nguồn gốc dân cư Đà Lạt phong phú, đa dạng. Bởi vậy, thành phần dân cư Đà Lạt có đặc điểm khá riêng biệt, không giống như nhiều thành phố khác trong cả nước. Điểm khác biệt đó là nhóm cư dân người Việt, người Âu, người Hoa và các tộc người thiểu số phía Bắc do sự biến động của lịch sử đã cùng tụ cư với nhóm dân bản địa sinh sống trong một cộng đồng thống nhất. Tuy nhiên, phần lớn cư dân của thành phố là người Kinh, phần nhỏ còn lại gồm những người Hoa, người Cơ Ho và các dân tộc thiểu số khác như Tày, Nùng, Chăm... Chính sự đa dạng này đã làm cho văn hóa của địa phương thêm phần đa dạng và phong phú.

Từ khi được chọn là thành phố du lịch với nhiều quy chế mới của thành phố, Đà Lạt mới thu hút dân cư từ mọi miền đất nước về hội tụ. Dân số trẻ, có trình độ học vấn khá, đời sống sung túc, có nhiều hoạt động kinh tế đóng góp cho xã hội:

- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GRDP) bình quân 10%/năm.

- Tổng sản phẩm (GRDP) bình quân đầu người đạt 76 triệu đồng/người/năm.


- Cơ cấu kinh tế: Dịch vụ - thương mại: 65,5%; công nghiệp - xây dựng: 17,6%; nông nghiệp 16,9%. (Phòng kinh tế thành phố Đà Lạt)

2.2. Tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp thành phố Đà lạt‌

2.2.1. Tiềm năng tự nhiên tạo sản phẩm du lịch‌

* Tiềm năng tự nhiên

- Địa hình:

Bên trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt:

+ Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao gồm các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải có độ cao tương đối từ 25-100m, lượn sóng nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung bình khoảng 1.500m.

Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng 1.700m tạo thành vành đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông Bắc có hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam 1.709m). Ở phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang Biang) hùng vĩ, cao 2.165m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644m). Về phía Tây Nam, các dãy núi hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là Pin Hatt (1.691m) và You Lou Rouet (1.632m).

+ Bên ngoài cao nguyên là các dốc núi từ hơn 1.700m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có độ cao từ 700m đến 900m.

Phần lớn khu dân cư và vùng trồng trọt canh tác nông nghiệp tập trung ở các thung lũng và triền núi thấp.

- Thổ nhưỡng:

Trải qua các hoạt động địa chất lâu dài, chủ yếu là quá trình phong hóa và chịu ảnh hưởng sâu đậm của khí hậu, địa hình, hệ thực vật khu vực, trên bề mặt địa hình Đà Lạt đã hình thành một lớp phủ thổ nhưỡng với các loại đất khác nhau, mang tính đai cao rõ nét. Quá trình phong hoá tạo đất ở nơi đây diễn ra tương đối mạnh mẽ

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 25/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí