Kinh Nghiệm Trong Và Ngoài Nước Về Phát Triển Đội Ngũ Công Chức Ngành Dự Trữ Nhà Nước

chức ngành dự trữ nhà nước được nâng lên do vậy đã thực hiện có hiệu quả trong quá trình bảo quản và sử dụng nguồn lực dự trữ này đúng mực đích, đúng yêu cầu, trong điều kiện thời gian nhất định.

Về năng lực tổ chức hoạt động: Phải là người có trình độ tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, có tư duy nhạy bén, sáng tạo, có phương pháp làm việc dân chủ khoa học, có tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm; có khả năng hoạch định các chương trình, kế hoạch hành động và khả năng tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của ngành, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đó chính là thước đo cơ bản nhất về chất lượng đội ngũ công chức nói chung, đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước nói riêng hiện nay.

Về trình độ chuyên môn: Phải là những người được đào tạo và được bồi dưỡng thường xuyên để có trình độ chuyên môn phù hợp với chức năng nhiệm vụ. Có khả năng tiếp thu được những kiến thức khoa học, công nghệ tiên tiến, kiến thức về kinh tế thị trường, kiến thức về pháp luật, kiến thức về quản lý nhà nước, ngoại ngữ và tin học... để nắm bắt kịp thời những yêu cầu, những biến động của thực tiễn ở cơ sở, theo kịp những thay đổi và sự phát triển của ngành, của đất nước, của khu vực và thế giới.

Về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng: Phẩm chất chính trị là yêu cầu cơ bản của công chức. Đó là nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lợi ích của giai cấp, lợi ích của dân tộc; có ý thức tự chủ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; có tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp của Đảng, của nhân dân.

Bốn là, tâm và tầm của đội ngũ lãnh đạo công chức trong ngành dự trữ nhà nước.

Là những người đứng đầu trong cơ quan dự trữ nhà nước ở trung ương và địa phương có trách nhiệm lãnh đạo quá trình hoạt động của đội ngũ công chức, đội ngũ lãnh đạo công chức phải tuân thủ trong quá trình thực hiện quản lý cũng như phân phối nguồn lực dự trữ này. Nếu tâm và tầm của người lãnh đạo ngày càng được phát huy thì sẽ tạo động lực thúc đẩy cho đội ngũ công chức làm tốt hơn công

việc được giao. Tâm ở đây tức là thái độ đối xử của lãnh đạo đối với đội ngũ công chức một cách đúng đắn, chân thành và tạo mọi thuận lợi để giúp cho mỗi một công chức phát triển toàn diện, tạo môi trường tâm lý để đội ngũ này vượt qua những khó khăn cũng như tìm mọi cách giúp họ được thăng tiến. Tầm ở đây có nghĩa là tầm nhìn chiến lược, tầm nhận thức, hiểu biết, phông văn hoá, bản lĩnh nghề nghiệp…

Năm là, yếu tố môi trường.

Yếu tố môi trường tác động đến sự phát triển đội ngũ công chức trong ngành dự trữ nhà nước bao gồm: Môi trường chính trị, môi trường xã hội, môi trường khoa học kỹ thuật công nghệ, môi trường về tâm lý, môi trường thiên nhiên, môi trường quốc tế hóa. Đây là những môi trường tác động không nhỏ đến quá trình phát triển đội ngũ lãnh đạo công chức trong ngành dự trữ nhà nước.

2.4. Kinh nghiệm trong và ngoài nước về phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 243 trang tài liệu này.

2.4.1. Kinh nghiệm trong nước

Ngay từ năm 1945 Đảng và Nhà nước đã có chủ trương thành lập quỹ dự trữ nhà nước để phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống pháp. Trong những ngày đầu, Bác Hồ đã quan tâm đến việc xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác quản lý và phân phối nguồn dự trữ này. Điều đó được thông qua việc tuyển chọn những người có năng lực trình độ thực tế có kinh nghiệm cũng như có phẩm chất đạo đức hết lòng phục vụ cho đất nước. Mặc dù lúc bấy giờ việc tuyển chọn đội ngũ này gặp rất nhiều khó khăn, do công việc này còn mới mẻ. Nhưng để có đội ngũ đáp ứng yêu cầu của công việc này lúc bấy giờ Đảng và nhà nước đã có chủ trương tuyển chọn trước hết là những người có tinh thần thái độ phục vụ tốt quên mình vì nhân dân… Sau đó được cử đi học các lớp đào tạo về cách thức quản lý và phân phối nguồn hàng dự trữ. Nhờ vậy trong nước mặc dù còn khó khăn trong công tác quản lý nguồn hàng dự trữ do bố trí phân tán nhưng phải phục vụ trên địa bàn ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung, nhưng kết quả mang lại tương đối đảm bảo yêu cầu đề ra. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nguồn hàng dự trữ nhà nước ngày càng tăng lên về cơ cấu trữ lượng các mặt hàng. Điều này đòi hỏi việc xây dựng đội ngũ công chức làm công tác này phải có sự đổi mới cải cách

Phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước Việt Nam - 10

trong quá trình hoạt động. Do đó Ban tổ chức Trung ương lúc bấy giờ đã có chủ trương tuyển chọn và kiểm tra trình độ về lĩnh vực bảo quản hàng hóa nguồn dự trữ cũng như cách thức lập kế hoạch phân phối cấp phát nguồn dự trữ này theo đúng quy định.

Trong điều kiện hiện nay nước ta còn gặp nhiều khó khăn về thiên tai, biến đổi khí hậu, bão lũ, dịch bệnh, cũng như phục vụ cho công tác xây dựng bảo vệ đất nước ngày càng đòi hỏi phải nhanh chóng phát triển số lượng, chất lượng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu đã đặt ra. Trước tình hình này ngoài việc thành lập các Cục dự trữ nhà nước khu vực và Tổng cục dự trữ Nhà nước ở trung ương thì các vùng đều thành lập các Chi cục dự trữ nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này nhà nước đã đề ra các yêu cầu nhằm phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước, phải đảm bảo các tiêu chí và các nguyên tắc trong quá trình hoạt động của đội ngũ này. Ngoài việc nhà nước ban hành các chính sách hệ thống pháp luật để tạo điều kiện cho đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước không ngừng phát triển thì đồng thời quan tâm đến các chính sách để thu hút, đãi ngộ đối với đội ngũ này ngày càng đáp ứng mục tiêu đề ra trong phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước.

2.4.2. Kinh nghiệm nước ngoài

- Kinh nghiệm ở Vương quốc Anh

Vương quốc Anh là một quốc gia hình thành nguồn dự trữ nhà nước ngay từ năm 1930, bởi vì lúc đó các thuộc địa của Anh đang phát triển do đó nguồn dự trữ của Anh cần phải bổ sung phát triển để đáp ứng yêu cầu hoạt động cho nước Anh và các nước thuộc địa nhằm khắc phục tình trạng biến động tài chính ngân hàng và những trường hợp thiệt hại do thiên tai gây ra. Lúc này đội ngũ nhân lực làm việc trong nguồn dự trữ Vương quốc Anh chỉ sử dụng những người có kinh nghiệm trong vấn đề quản lý và sử dụng nguồn dự trữ theo đúng quy định của Chính phủ Anh. Do đó đội ngũ những người làm công tác này từ Trung ương đến địa phương đều được đào tạo một cách bài bản để đáp ứng nhu cầu đã đặt ra. Những năm 1930- 1935 Vương quốc Anh có chủ trương dự trữ lúa mì và một số thực phẩm khác nhưng dần dần được thay thế bằng dự trữ vàng và tiền tệ. Quá trình dự trữ này thực

hiện có hiệu quả cũng bắt nguồn từ nguyên nhân là tuyển chọn bố trí sử dụng đội ngũ này được thực hiện một cách nghiêm ngặt không những về năng lực trình độ, về phẩm chất mà cả sự tin tưởng và uy tín của mỗi người trong bộ máy dự trữ quốc gia của Vương quốc Anh. Điều nhận thức sâu sắc và cũng là kinh nghiêm rút ra là phát triển đội ngũ này phải tiến hành từng bước chắc chắn không nóng vội để đảm bảo các tiêu chí đối với đội ngũ làm công tác này sao cho đáp ứng với yêu cầu công việc của ngành dự trữ đang đòi hỏi.

Nước Anh áp dụng “chế độ công trạng” để tìm nhân tài. Trong đó quan tâm đến việc lựa chọn những người có năng lực, trình độ, phẩm chất để đảm nhận công việc lãnh đạo đối với quá trình phân phối quản lý nguồn dự trữ quốc gia. Cứ mỗi năm công chức phải có báo cáo tổng kết công tác của chính mình, lãnh đạo ngành căn cứ vào báo cáo và kết quả theo dõi trong quá trình quản lý công chức để có nhận xét công chức hàng năm. Việc thăng cấp của công chức trong ngành dự trữ quốc gia đều phải dựa trên cơ sở kết quả thi cử quyết định. Như vậy, cùng với chế độ thi cử, “chế độ công trạng” đã thúc đẩy tính tích cực cho đội ngũ này trong thực thi công vụ, đòi hỏi mỗi công chức trong bộ máy phải có nỗ lực cao. Các công chức đều được nhà nước tạo điều kiện phát huy khả năng quản lý, bảo quản, phân phối, cấp phát nguồn dự trữ một cách đầy đủ, kịp thời, có khả năng đối phó, nhạy bén với tình hình mới trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế xã hội.

- Kinh nghiệm ở Pháp

Việc đào tạo đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước ở Pháp lâu nay được tiến hành theo hai hình thức đào tạo ban đầu và đào tạo chuyên sâu. Đối với đào tạo ban đầu đòi hỏi công chức phải nắm vững các kiến thức chuyên ngành và liên ngành. Kiến thức chuyên ngành đòi hỏi công chức phải nắm vững các phương pháp quản lý, quản trị bảo quản nguồn dự trữ theo đúng yêu cầu mục tiêu và kỹ thuật công nghệ đề ra. Là một ngành đòi hỏi đội ngũ công chức phải nắm vững các mặt khoa học liên quan đến các công tác chuyên môn của mình như phải hiểu biết về mặt xã hội, môi trường, phương pháp cân đối, khả năng giao tiếp với các đối tượng được nhận từ quỹ dự trữ. Đồng thời nhà nước Pháp cũng đã có nguyên tắc thi nâng bậc cho công chức bằng hai hình thức. Hình thức thi nghiệp vụ do hội đồng thi

tuyển sát hạch, đánh giá, phân loại và tham khảo hồ sơ của công chức để viết nhận xét. Hình thức thi thực hành tại nơi làm việc thông qua những tình huống giả thuyết đòi hỏi công chức phải vận dụng để đảm bảo hiệu quả kịp thời nhanh chóng, chính xác. Sau khi được Hội đồng thông qua, thủ trưởng hành chính ra quyết định đề bạt. Nhờ tổ chức những cuộc thi này, người công chức có thể phấn đấu để được đề bạt, đồng thời cũng là cơ hội để nhà nước nâng cao chất lượng công chức. Hàng năm, công chức đều phải làm bản tự đánh giá thực hiện công việc và khả năng nghiệp vụ của mình và được sự đánh giá của các thành viên trong đội ngũ này.

- Kinh nghiệm ở Nhật Bản

Ở Nhật Bản việc phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước là một nội dung được chính phủ rất coi trọng, coi đây là yêu cầu có tính cấp thiết nhưng cũng rất khắc khe, nghiêm túc đối với đội ngũ này. Quá trình phát triển, đòi hỏi các thành viên trong đội ngũ phải tự mình học hỏi trau dồi nghề nghiệp và học suốt đời để làm tốt công việc mà ngành dự trữ nhà nước đang đòi hỏi. Đội ngũ công chức này không những đảm bảo các yêu cầu mục tiêu về đạo đức phẩm chất, trình độ năng lực, họ phải có tinh thần ý chí, phục vụ cho công việc được giao, đảm bảo hoàn thành dù trong bất kì tình huống nào. Cụ thể như trong tình hình động đất đang diễn ra nhưng công chức nhà nước sẵn sàng dám hy sinh trong bất kì tình huống nào nguy hiểm đến tính mạng, để cung cấp những điều kiện phương tiện cứu sống người cũng như đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm kể cả vấn đề tiền bạc để các đối tượng này có thể hoạt động trở lại mức bình thường trong thời gian ngắn nhất. Họ coi đây chính là những đức tính cần thiết của một công chức trong ngành dự trữ nhà nước Nhật Bản. Chế độ thi tuyển công khai, công bằng và chỉ những người ưu tú mới được tuyển dụng vào làm công chức ngành dự trữ nhà nước nên họ được xã hội tôn trọng, tin tưởng. Từ đó công chức trong ngành dự trữ nhà nước Nhật Bản có niềm tự hào với trọng trách của mình được xã hội giao phó. Sau thời gian làm việc từ 5 đến 6 năm thì mới được xét tuyển chính thức vào cơ quan dự trữ nhà nước và hưởng biên chế suốt đời. Theo chủ trương sắp đến Nhật Bản ban hành luật để nâng cao hiệu quả hoạt động của công chức nói chung và ngành dự trữ nhà nước nói riêng sẽ thực hiện theo hợp đồng không áp dụng biên chế suốt đời. Bởi vì đây là

hình thức áp dụng hàng trăm năm ở Nhật nhưng qua đó cũng thấy những hạn chế bất cập. Do đó có xu hướng công chức thực hiện biên chế suốt đời như hiện nay sẽ chuyển sang hình thức hợp đồng.

- Kinh nghiệm ở Trung Quốc

Xây dựng phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước ở Trung Quốc đã được tiến hành từ năm 1949 sau khi giành được chính quyền. Quá trình xây dựng đội ngũ này dựa trên các lý thuyết về quản lý nguồn nhân lực thuộc khoa học quản lý. Quá trình xây dựng đội ngũ công chức trong ngành dự trữ nhà nước được trải qua nhiều thời kì và nhiều kinh nghiệm khác nhau. Từ năm 1949-1955, đội ngũ công chức làm công tác trong ngành dự trữ nhà nước ờ Trung Quốc có xu thế tăng lên nhưng việc lựa chọn nhân viên trong đội ngũ này vẫn được đặt ra rất khắt khe dẫn đến sự phát triển đội ngũ này tuy chậm nhưng rất chắc. Lúc này năng lực, trình độ của đội ngũ nói trên còn hạn chế, chủ yếu là dựa vào quy định có tính bắt buộc. Đội ngũ này được bắt đầu từ việc xác lập công tác quy hoạch, đào tạo, xây dựng bộ máy đào tạo và cơ sở đào tạo đến việc thể chế hoá đội ngũ công chức. Nhờ đó, từ chỗ chỉ có 9% cán bộ, công chức có trình độ đại học trở lên đến năm 2001 Trung Quốc đã đã lên đến 67,2 %.

- Chính phủ Trung Quốc tiến hành điều tra, phân tích sự phát triển về các mặt của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước trên thực tế cũng như các điều kiện môi trường tác động đến họ. Từ đó đưa ra những quy định tương đối chi tiết về chế độ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, quyền lợi theo theo từng đối tượng, cương vị của mỗi công chức trong đội ngũ này.

- Chính phủ Trung Quốc đưa ra các quan điểm về phát triển đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ công chức ngành dự trữ nói riêng gắn chặt quá trình phát triển với quá trình tổ chức củng cố bộ máy và sự phát triển về số lượng, chất lượng, đặc biệt tạo lập cho công chức các quyền hạn để thực thi nhiệm vụ và được đánh giá, đãi ngộ qua “công trạng”, loại bỏ dần chế độ bổng lộc, thực thi chế độ nghiêm ngặt, theo dõi và ghi lại quá trình công tác của công chức trong từng giai đoạn, coi đó là một chứng chỉ nghề nghiệp.

- Kinh nghiệm ở Hàn Quốc

Hàn Quốc rất coi trọng công tác đào tạo công chức ngành dự trữ nhà nước. Mục tiêu đào tạo công chức ngành này là nâng cao kiến thức và kỹ năng để thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao tính tích cực nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong công việc, động viên công chức yên tâm công tác. Việc đào tạo công chức không chỉ nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản lý mà còn đặc biệt đề cao việc bồi dưỡng nhân cách; nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công vụ.

Tất cả công chức ngành dự trữ nhà nước ở Hàn Quốc đều được động viên tham gia một hình thức đào tạo nhân cách và tính tích cực để phát triển toàn diện, nhằm đề cao trách nhiệm và nhiệm vụ của họ với tư cách là một thành viên công vụ… Mặt khác nhà nước Hàn Quốc đặc biệt coi trọng kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin đối với đội ngũ này. Do vậy đội ngũ công chức ngành dự trữ quốc gia Hàn Quốc rất giỏi công nghệ thông tin.

2.4.3. Một số kinh nghiệm nước ngoài có thể vận dụng ở Việt Nam trong phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước thời gian tới

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước ở các quốc gia, có thể rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng ở Việt Nam trong việc phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước như sau:

Một là, phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của ngành dự trữ nhà nước để từ đó có chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước, bởi đây là vấn đề có tính thực tiễn sâu sắc, phù hợp với tình hình quy mô số lượng, chất lượng của ngành dự trữ nhà nước. Theo xu hướng của thời đại thì quy mô dự trữ, nguồn lực quốc gia ngày càng có xu hướng tăng lên, do đó phải quan tâm đến chiến lược quy hoạch phát triển đội ngũ này có tốc độ phát triển nhanh nhưng ổn định và bền vững. Điều đó cho thấy ở nhiều quốc gia khi nguồn lực dự trữ nhà nước có sự thay đổi và mở rộng từ hình thức này sang hình thức khác thì đòi hỏi đội ngũ này phải có sự thay đổi để đáp ứng, ví dụ nước ta hiện nay dự trữ các mặt hàng như lương thực, vật tư cứu hộ, cứu nạn… cũng như các nguồn lực khác là chủ yếu nhưng xu thế sẽ phát triển chuyển đổi bổ sung như dự trữ tiền tệ, vàng, kim cương.

Điều này đòi hỏi phát triển đội ngũ công chức phải đa dạng, đa ngành, liên ngành. Từ đó phát triển đội ngũ này cũng theo định hướng nói trên.

Hai là, việc ban hành các quy định, các văn bản pháp lý đối với quá trình phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nước ta thời gian đến, đòi hỏi phải được cân nhắc xác định một cách cụ thể để phù hợp với tính đặc thù và sự khác biệt của ngành dự trữ so với ngành khác trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong toàn bộ đội ngũ công chức nhà nước nói chung. Bởi vì hiện nay vẫn còn tình trạng các văn bản có tính chung chung áp dụng đội ngũ cán bộ nào cũng được dẫn đến chưa thể hiện rõ nét tính đặc thù của đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước. Đồng thời ban hành văn bản đồng bộ các văn bản pháp quy để thống nhất việc xây dựng, quản lý, sử dụng và phát triển đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước. Chính điều này làm cơ sở cho việc tuyển chọn, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước trong quá trình phát triển.

Đội ngũ công chức ngành dự trữ nhà nước cần phải được quy định một cách cụ thể trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại ở các trường đại học trong và ngoài nước cũng như có thể mở riêng một phân hiệu trực thuộc Học viện Hành chính Quốc gia về đào tạo ngành dự trữ nhà nước. Đây là vấn đề cần thiết mà các nước đều có một cơ sở có trình độ đào tạo đại học để nghiên cứu đào tạo vấn đề này. Nhờ vậy các sinh viên ra trường đều có trình độ tay nghề cao và có thể tiếp tục làm việc, khắc phục tình trạng hiện nay đội ngũ công chức trong ngành dự trữ được tuyển chọn từ sinh viên tốt nghiệp các trường kinh tế, kỹ thuật nên còn bỡ ngỡ trong quá trình làm việc và muốn bồi dưỡng đào tạo lại cũng không biết gửi đến đâu, trường nào, cơ sở nào.

Ba là, nhà nước xây dựng tiêu chuẩn các chức danh cụ thể cho từng loại công việc của công chức ngành dự trữ nhà nước. Bởi vì khi đã xây dựng tiêu chuẩn chức danh sẽ là mục tiêu cơ sở cho việc phấn đấu của đội ngũ công chức để phát triển ngày càng toàn diện có hiệu quả trên các lĩnh vực, các chuyên ngành liên quan đến ngành dự trữ nhà nước. Đồng thời phải xây dựng các nguyên tắc tuyển chọn, sử dụng, đánh giá đội ngũ công chức ngành dự trữ một cách cụ thể để từ đó làm cơ sở cho việc đãi ngộ cho đội ngũ này một cách thỏa đáng trên cơ sở áp dụng thang bảng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2022