Phát triển dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Quảng Bình - 4



nghiệp nhỏ và vừa

Thứ hai, về thời hạn tín dụng: chủ yếu là vay ngắn hạn.

Thứ ba, về đảm bảo tín dụng: hầu hết các DNNVV phải có tài sản đảm

bảo khi vay vốn các ngân hàng thương mại.

Thứ tư, về mục đích sử dụng của vốn vay: chủ yếu sử dụng bổ sung vốn lưu động.

Thứ năm, về lãi suất: ít được ưu đãi lãi suất, lãi suất theo sự ấn định của các ngân hàng thương mại do DNNVV chưa có sự tín nhiệm cao từ các ngân hàng thương mại.


Thứ sáu, về khả năng hoàn trả nợ vay: DNNVV dễ gặp khó khăn trong việc trả nợ vay khi có sự biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ như: lạm phát, khủng hoảng kinh tế, tài chính ….

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Với đặc điểm của các DNNVV và tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV, nên quan hệ tín dụng giữa DNNVV với các ngân hàng thương mại tiềm ẩn các rủi ro sau đây:

- Tình trạng thông tin bất cân xứng làm cho ngân hàng không nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro của DNNVV một cách toàn diện và đầy đủ, do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn khi quyết định cho vay. Các DNNVV, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường kinh doanh dựa vào mối quan hệ quen biết và manh mún nên ngân hàng khó phát hiện được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi đã giải ngân.

Phát triển dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Quảng Bình - 4

- Khả năng tài chính của các DNNVV bị hạn chế, cụ thể là vốn tự có thấp do đó khi gặp khó khăn thì dẽ bị mất tính thanh khoản, dẫn đến việc thu hồi nợ vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn.

- Việc sử dụng vốn sai mục đích của các DNNVV cũng làm nảy sinh các rủi ro mất vốn của ngân hàng. Các DNNVV thường sử dụng vốn vay cho mục đích cá nhân và gia đình.

- Các DNNVV kinh doanh thường phụ thuộc vào một số khách hàng lớn,



khi những khánh hàng này gặp khó khăn thì DNNVV cũng sẽ khó khăn theo, từ đó

gâp rủi ro cho ngân hàng.

1.3.1.3. Quy trình cho vay.

Nhằm đảm bảo hoạt động cho vay được tiến hành một cách khoa học theo một trình tự hợp lý, trên cơ sở đó hạn chế tối đa rủi ro khi cấp tín dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí, tránh phiền hà … các ngân hàng thương mại thường xây dựng qui trình cho vay. Trên thực tế, mỗi ngân hàng thương mại có thể xây dựng cho mình một quy trình cho vay riêng, phù hợp với đặc điểm tình hình của mình. Tuy nhiên, về cơ bản nội dung của qui trình cấp tín dụng bao gồm bảy bước chủ yếu sau đây:

Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ tín dụng. Khách hàng có nhu cầu vay lập bộ hồ sơ đề nghị ngân hàng phục vụ mình xem xét đáp ứng nhu cầu vay vốn của mình.

Bước 2: Thẩm định hồ sơ tín dụng. Đây là bước có ý nghĩa rất quan trọng để ngân hàng có thể đi đến quyết định có cho khách hàng vay hay không? Mức cho vay bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao lâu, lãi suất bao nhiêu? ….

Bước 3: Ra quyết định tín dụng. Với những kết quả sau khi thẩm định và phân tích tín dụng, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay đối với hồ sơ vay vốn của khách hàng đã được thẩm định.

Bước 4: Giải ngân. Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng, việc giải ngân cho khách hàng vay được ngân hàng thực thi theo điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng.

Bước 5: Kiểm tra sử dụng vốn vay. Kiểm tra sử dụng vốn vay nhằm phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc giá trị tài sản đảm bảo không còn đủ đáp ứng yêu cầu.

Bước 6: Đôn đốc thu hồi nợ. Căn cứ kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, cán bộ tín dụng nhắc nhở khách hàng để có thể thực hiện thu hồi nợ theo đúng kỳ hạn thỏa thuận

Bước 7: Thanh lý hợp đồng tín dụng. Kết thúc thời hạn hợp đồng, ngân

hàng và khách hàng cùng xem xét kết quả thực hiện từng điều khoản hợp đồng đã



được thỏa thuận giữa hai bên.

1.3.2. Nội dung phát triển dịch vụ tín dụng đối với DNNVV

1.3.2.1. Mở rộng dịch vụ tín dụng của các NHTM đối với DNNVV.

Mở rộng dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc các ngân hàng thương mại cải thiện, đổi mới cách thức và tăng cường cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng dễ dàng tiếp cận nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại, từ đó ngân hàng thương mại tăng được doanh số cho vay, tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại.


Việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp

nhỏ và vừa phải đảm bảo được hai mặt sau:

- Mặt định tính: đó là NHTM phải nâng cao được chất lượng và hiệu quả của các khoản cho vay đối với DNNVV. Để làm đảm bảo được mặt này thì NH cần phải giảm được nợ quá hạn, nợ xấu đồng thời tăng thu nhập, lợi nhuận từ hoạt đông cho vay.

- Mặt định lượng: đó là sự gia tăng số lượng các DNNVV tiếp vay vốn, tăng

dự nợ đối với các DNNVV, tăng doanh số cho vay đối với DNNVV.

Các tiêu chí phản ánh quy mô tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

Đây là tiêu chí cơ bản thường được sử dụng đầu tiên khi đánh giá hoạt động tín dụng của một NHTM đối với một đối tượng khách hàng nhất định.

Doanh số cho vay trong kỳ đối với DNNVV: là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho các DNNVV vay trong một kỳ (thường là một năm). Đây là tiêu chí phản ánh quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của Ngân hàng với các DNNVV.

Khi xem xét doanh số cho vay người ta thường tính tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay đối với DNNVV để đánh giá khả năng mở rộng quy mô cho vay tới DNNVV qua các thời kỳ.

Tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay =

(Doanh số CV DNNVV năm nay – Doanh số cho vay DNNVV năm trước)


x 100%



đối với DNNVV Doanh số cho vay năm trước đối với DNNVV


Đây là số tương đối (%), nếu chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay dương

thể hiện quy mô cho vay tăng lên, âm thể hiện quy mô cho vay đã sụt giảm qua các kỳ.

Doanh số cho vay và tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay cao là cơ sở phản ánh một chất lượng tín dụng đối với DNNVV tốt.

- Dư nợ tín dụng đối với DNNVV: Dư nợ của DNNVV là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho DNNVV vay tại một thời điểm nhất định, thường xem xét ở thời điểm cuối kỳ. Đây là số tuyệt đối thể hiện quy mô cho vay tới các DNNVV tại một thời điểm nhất định. Tiêu chí này lớn chứng tỏ quy mô cho vay càng lớn, ngân hàng đang mở rộng cho vay đối với DNNVV.

Tổng dư nợ thấp chỉ ra rằng ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị kém, trình độ nguồn nhân lực không cao. Tuy nhiên, không phải bất kỳ thời điểm nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt và ngược lại. Do vậy, khi phân tích tiêu chí này, không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Xét về số tương đối, tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNNVV phản ánh mức độ cho vay của ngân hàng đối với DNNVV qua các kỳ là nhanh hay chậm.

(Dư nợ năm nay – Dư nợ năm

Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đối với DNNVV

trước) đối với DNNVV

=

Dư nợ năm trước đối với

DNNVV


x 100%

Tỷ lệ này lớn hơn không, có thể kết luận rằng năm sau đã có sự mở rộng tín dụng so với năm trước. Trong điều kiện các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng đối với DNNVV khác đảm bảo thì tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cũng có ý nghĩa phản ánh chất lượng tín dụng tốt.

Như vậy, phân tích nhóm chỉ tiêu về dư nợ, doanh số cho vay đối với DNNVV cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn của khách hàng là các DNNVV, khả năng cạnh tranh, thu hút khách hàng của ngân hàng, điều này thể



hiện phần nào chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này.

Tuy nhiên, khi đánh giá phát triển dịch vụ tín dụng, không thể chỉ thông qua việc phân tích hoạt động tín dụng về mặt lượng mà cần xem xét tới các yếu tố phản ánh khả năng an toàn và lành mạnh của các khoản tín dụng đó.

1.3.2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại

a. Các chỉ tiêu sử dụng vốn và phản ánh dư nợ. Chỉ tiêu sử dụng vốn:

Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một các hiệu quả nguồn vốn huy động được.

Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung dài han)/tổng dư nợ.

Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ được phân theo thời hạn vay (ngắn, trung, dài hạn). Tiêu chí này còn cho thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.

b. Các chỉ tiêu phản ảnh nợ xấu của DNNVV.

Tiêu chí nợ quá hạn của DNNVV: là khoản nợ gốc hay lãi mà DNNVV không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng giữa DN và ngân hàng. Trên thực tế, các khoản vay bị chuyển sang trạng thái quá hạn là các khoản vay có vấn đề, DN không có khả năng trả nợ ngân hàng, khả năng mất vốn của ngân hàng cao, điều đó có nghĩa là tính an toàn của khoản vay thấp. Khi đó sẽ liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản, khiến ngân hàng gia tăng chi phí do phải tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Đồng thời DN phải chịu lãi suất quá hạn sẽ khiến cho DN đã khó sẽ càng khó khăn hơn trong việc trả nợ.

Nợ quá hạn cao phản ánh chất lượng dịch vụ tín dụng thấp song không một NHTM nào tránh được nợ quá hạn. Đôi khi nợ quá hạn xảy ra không phải do phía DN mà là từ chính Ngân hàng như: cán bộ tín dụng không quan tâm thích đáng chu



kỳ kinh doanh của DNNVV, kỳ hạn nợ không phù hợp chu kỳ kinh doanh của DN có thể gây nợ quá hạn.

Tuy nhiên khi xem xét chất lượng tín dụng DNNVV không chỉ đơn thuần đánh giá nợ quá hạn mà còn đánh giá chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn DNNVV là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến nhất khi đánh giá về chất lượng tín dụng ngân hàng vì nó biểu hiện cho những rủi ro tiềm ẩn về khả năng thu hồi gốc và lãi vay mà ngân hàng đang phải đối mặt.

Có hai tỷ lệ nợ quá hạn cần quan tâm, đó là: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV / Tống dư nợ cho vay DNNVV.


Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV

Nợ quá hạn cho vay DNNVV

= x 100%

Tống dư nợ cho vay DNNVV

Tổng dư nợ cho vay DNNVV

Tổng dư nợ cho vay DNNVV Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV chiếm trong tổng dư nợ cho vay DNNVV của ngân hàng.

Và tiêu chí: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV / Tổng dư nợ cho vay:



Tỷ lệ nợ quá hạn cho

vay DNNVV =


Nợ quá hạn cho vay

DNNVV x 100%

Tống dư nợ cho vay Tổng dư nợ cho vay



Tiêu chí này phản ánh tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp, khả năng thu hồi vốn đúng hạn kém và có khả năng làm giảm lợi nhuận và khả năng thanh toán của ngân hàng. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, nợ quá hạn nhưng có khả năng thu hồi do khách hàng có kế hoạch kinh doanh và trả nợ tốt, tài sản đảm bảo giá trị lớn thì không thể vì thế đánh



giá ngay chất lượng tín dụng là thấp. Vì vậy, dùng tiêu chí nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng phải đưa ra một tỷ lệ % theo từng thời kỳ mới là hợp lý.

Ngoài ra, khi đánh giá nợ quá hạn có thể xem xét chi tiết hơn thông qua việc phân loại nợ. Để tiêu chí này phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng, nợ quá hạn có thể được phân loại nhỏ hơn theo thời gian quá hạn thành nợ quá hạn thông thường, nợ quá hạn khó đòi, nợ có khả năng mất vốn...

Hiện nay, đối với Việt Nam, việc phân loại nợ tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD được chia thành các nhóm sau:

- Nợ đủ tiêu chuẩn - Nhóm 1, bao gồm:


+ Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ

cả gốc và lãi đúng hạn.

+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu

hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.

- Nợ cần chú ý - Nhóm 2, bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.

+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).

- Nợ dưới tiêu chuẩn - Nhóm 3, bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 kể trên.

+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng

trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.

- Nợ nghi ngờ - Nhóm 4, bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.



+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.

- Nợ quá hạn có khả năng mất vốn - Nhóm 5, bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị

quá hạn hoặc đã quá hạn.

+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Như vậy, nợ quá hạn của NHTM có ở cả 5 nhóm nợ. Khi cả 4 tiêu chí nợ quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5 ở mức độ cao thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng đang gặp rất nhiều rủi ro, khả năng bảo toàn vốn thấp, có thể đe doạ đến sự tồn tại của ngân hàng.

Tuy nhiên trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh là không thể tránh khỏi nên các NHTM hiện nay thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn an toàn tín dụng đối với NHTM. Thông thường, tỷ lệ này được duy trì ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.

c. Các chỉ tiêu thu lãi từ hoạt động tín dụng.

Là một DN, do đó lợi nhuận cũng là mục tiêu cuối cùng của ngân hàng. Kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt nên lợi nhuận của ngân hàng có được là do chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Nguồn thu lãi từ hoạt động cho vay là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại phát triển. Khi hoạt động tín dụng thu được lãi cao chứng tỏ các khoản vay đảm bảo được tính an toàn đồng vốn cho vay. Chất lượng cho vay của ngân hàng đối với một đối tượng khách hàng nhất định tốt thì thu nhập từ hoạt động cho vay sẽ cao khi cùng mức dư nợ so với ngân hàng khác. Hay nói cách khác thu lãi đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tài sản của nhà quản lý ngân hàng.

Như vậy, đánh giá phát triển dịch vụ tín dụng đối với DNNVV không thể bỏ qua việc tính toán và phân tích lãi thu được từ tín dụng với DNNVV, tỷ lệ lãi thu từ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/06/2022