Với chức năng trên thì hoạt động của Trung tâm thanh khoản bao gồm:
- Quản lý việc thu thập, xử lý số liệu cuộc gọi của khách hàng của các nhà khai thác viễn thông trên lãnh thổ Việt nam có nhu cầu thanh khoản theo thoả thuận cung cấp dịch vụ thanh khoản giữa các nhà khai thác viễn thông và Trung tâm thanh khoản.
- Quản lý việc tính cước kết nối: Trên cơ sở số liệu thu thập, phân tích theo từng loại hình dịch vụ và áp cước kết nối theo các văn bản hướng dẫn hiện hành của Nhà nước, Tập đoàn và theo thoả thuận kết nối giữa các nhà khai thác viễn thông.
- Quản lý việc đối soát số liệu: Trung tâm thực hiện đối soát tổng hợp toàn bộ số liệu hoặc chi tiết số liệu để sử dụng trong việc tính cước kết nối ứng với từng loại hình dịch vụ.Khi tỷ lệ đối soát tổng hợp lớn hơn tỷ lệ chênh lệch thoả thuận thì thực hiện đối soát chi tiết, số liệu dùng để đối soát chi tiết căn cứ theo thoả thuận giưã Trung tâm thanh khoản với các nhà khai thác viễn thông.
- Quản lý biên bản xác nhận số liệu tính cước kết nối và đối soát giưã Trung tâm thanh khoản với các nhà khai thác viễn thông.
- Thanh toán bù trừ cước kết nối và các khoản cước chia khác giữa các đơn vị thành viên trong Tập đoàn, giữa Tập đoàn với các nhà khai thác viễn thông khác trong và ngoài nước và giưã các nhà khai thác viễn thông khác với nhau.
- Thay mặt các nhà khai thác viễn thông hoàn tất các thủ tục liên quan đến thanh khoản trong đàm phán kết nối, đàm phán roaming giữa các mạng di động trong nước và các thoả thuận khác…
3.2.3.2 Lựa chọn mô hình
Chúng tôi cho rằng nên thành lập Trung tâm thanh khoản dưới dạng công ty cổ phần là phù hợp nhất vì:
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Nhu Cầu Sử Dụng Dịch Vụ Tài Chính Do Vnpt Cung Cấp
- Xu Hướng Nhu Cầu Sử Dụng Dịch Vụ Tài Chính Do Vnpt Cung Cấp
- Nâng Cao Hiệu Lực Quản Lý Của Tập Đoàn Đối Với Các Hoạt Động Dịch Vụ Tài Chính
- Phát triển dịch vụ tài chính trong Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam - 19
- Hiện Đại Hóa Cơ Sở Hạ Tầng Kỹ Thuật Và Công Nghệ
- Đẩy Mạnh Công Tác Điều Tra, Nghiên Cứu Thị Trường Dịch Vụ Tài Chính
Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.
Thứ nhất: Trung tâm thanh khoản sẽ được hình thành trên cơ sở chuyển đổi một trong các định chế tài chính củaVNPT. Nhờ vậy Trung tâm thanh khoản sẽ kế thừa, phát huy được kinh nghiệm quý báu về kinh doanh tài chính - tiền tệ,
mạng lưới cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên, quan hệ truyền thống với khách hàng của định chế tài chính này.
Thứ hai: Hình thức công ty cổ phần đem lại hiệu quả kinh tế nên việc thành lập Trung tâm thanh khoản là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường và chiến lược phát triển của VNPT đó là phát triển theo hướng trở thành Tập đoàn kinh tế kinh doanh đa ngành, đa dịch vụ, thực hiện đa sở hữu.
Thứ ba: Trong cơ cấu vốn cổ phần của Trung tâm thanh khoản, VNPT và các đơn vị thành viên trong VNPT sẽ chiếm cổ phần chi phối, cổ đông sáng lập sẽ mời các nhà khai thác viễn thông lớn trên thị trường Việt nam, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp lớn tham gia sáng lập nhằm tranh thủ vốn, uy tín và kinh nghiệm cũng như các mối quan hệ với các tổ chức này.
3.2.3.3 Các bước đi thích hợp
- Bước 1: Thực hiện tách Bưu chính và Viễn thông, phân định hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích, tiến tới hạch toán theo từng dịch vụ nhằm xác định chi phí của các dịch vụ một cách chính xác.
- Bước 2: Thực hiện chuyển đổi các định chế tài chính trong VNPT theo như đề xuất của đề tài: Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện thành Ngân hàng Bưu điện; công ty Tài chính Bưu điện thành công ty cổ phần dịch vụ tài chính.
- Bước 3: Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất; đội ngũ cán bộ, nhân viên; các mối quan hệ với khách hàng trên cơ sở phát triển dịch vụ thanh khoản từ dịch vụ hiện nay trung tâm thanh khoản thuộc VTN đang làm.
- Bước 4: Xây dựng đề án thành lập Trung tâm thanh khoản chuyển đổi từ Trung tâm thanh khoản thuộc VTN hiện nay.
3.2.4. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tài chính,phát triển các dịch vụ tài chính mới do các chủ thể của VNPT cung cấp
Như phần thực trạng phát triển dịch vụ tài chính của Tập đoàn đã nêu, cho thấy dịch vụ tài chính mà Tập đoàn tham gia cung cấp còn rất hạn chế mới chỉ tập trung vào một số các dịch vụ là tiết kiệm Bưu điện, dịch vụ tín dụng, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ chuyển tiền và dịch vụ bảo hiểm, còn một số các dịch
vụ như dịch vụ thanh toán, dịch vụ trên thị trường chứng khoán hầu như chưa phát triển, có dịch vụ chỉ mới trong giai đoạn thử nghiệm, thậm chí một số dịch vụ mới chỉ ra đời trên hệ thống văn bản pháp luật.
Bởi vậy cần đẩy mạnh phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ tài chính trên cơ sở củng cố và hoàn thiện các dịch vụ tài chính hiện có, hình thành và phát triển các dịch vụ tài chính mới còn rất tiềm năng. Nhanh chóng tổng kết các loại dịch vụ tài chính đang áp dụng thử nghiệm như dịch vụ thẻ thanh toán, tài khoản cá nhân, tín dụng tiêu dùng…để trên cơ sở đó áp dụng rộng rãi và có kế hoạch triển khai đại trà các loại dịch vụ này. Đồng thời tiếp tục xây dựng nhằm tiến tới hình thành và phát triển thêm các loại dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng trong nền kinh tế như dịch vụ kinh doanh tài sản bằng tiền, dịch vụ kinh doanh thương phiếu…v.v.
a) Đối với dịch vụ ngân hàng:
Dịch vụ tiết kiệm:
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn theo hướng thỏa mãn tối đa nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Xu hướng đa dạng hóa hình thức huy động vốn hiện nay là làm mới các sản phẩm đang có như vận dụng phương thức trả lãi và gốc linh hoạt: có thể trả lãi trước, tiết kiệm có kỳ hạn rút từng phần (rút gốc nhiều lần, trả lãi một lần khi tất toán). Ngoài ra để tăng cường huy động nguồn vốn dài hạn, Công ty có thể khuyến khích khách hàng bằng cách cho hưởng một tỷ lệ lãi suất nhất định (cao hơn lãi suất không kỳ hạn) nếu khách hàng rút trước hạn nhưng gần đủ thời hạn. Đối với các kỳ hạn từ 3 năm trở lên, Công ty có thể áp dụng phương thức trả lãi gộp (cuối mỗi năm sẽ tính lãi nhập vào gốc) hoặc lãi suất thả nổi (từ năm thứ hai trở đi lãi suất thay đổi theo thời điểm).
Mở rộng nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều thời hạn, nhiều loại lãi suất, nhiều phương thức gửi và thanh toán khác nhau, gửi một nơi lấy ở nhiều nơi; mở sổ tiết kiệm không cần chứng minh nhân dân. Mở rộng hình thức huy động vốn thông qua việc phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá. Huy động bằng hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên đối với các tổ
chức và cá nhân, vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước,tổ chức tài chính quốc tế bằng nội và ngoại tệ (đối với công ty PTF).
Tiếp tục nghiên cứu đưa ra các sản phẩm huy động vốn mới có hàm lượng công nghệ cao và mang nhiều tiện ích cho khách hàng như: Sản phẩm tiết kiệm tích lũy; tiết kiệm bậc thang; tiết kiệm bảo hiểm; tiết kiệm dự thưởng; huy động vốn chi trả tại nhà với mức từ 50 triệu đồng trở lên. Trong đó chú trọng tới việc giảm chi phí huy động vốn, cải cách các thủ tục giao dịch ngân hàng đảm bảo nhanh, gọn, an toàn và hiệu quả.
Đa dạng hóa các dịch vụ Ngân hàng bán lẻ và các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở phát triển của công nghệ thông tin như thẻ ATM, ví điện tử, Ngân hàng điện tử, Internet Bank, phone bank, Mobile Banking, dịch vụ mua hàng qua mạng… Tuy nhiên VNPT phải xây dựng chiến lược đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của VNPT cũng như những lợi thế và bất lợi của từng dịch vụ để giúp dịch vụ đến gần với khách hàng, giúp họ sử dụng dịch vụ ngân hàng mà VNPT cung cấp một cách tốt nhất.
Dịch vụ tín dụng:
Mở rộng hình thức cho vay bằng hình thức chiết khấu, tái chiết khấu đối với các tổ chức và cá nhân bằng nội và ngoại tệ, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá.
Phát triển một số các dịch vụ mới như bao thanh toán, tài trợ cho vay tiêu dùng, cho vay thấu chi, cho vay mua cổ phần, chứng khoán…v.v.
Tham gia góp vốn, mua cổ phần của các đơn vị trong ngành đang tiến hành cổ phần hoá. Mở rộng hoạt động cấp tín dụng cho các đơn vị ngoài ngành.
Phát triển các dịch vụ tài chính tín dụng tiêu dùng như cho vay thế chấp nhà, cho vay tín chấp, cho vay trả góp, cho vay thấu chi qua thẻ tín dụng, cho vay cầm cố sổ tiết kiệm… cần có một chính sách khách hàng nhất quán để có thể quản lý tập trung và phân đoạn khách hàng theo từng mạng lưới chi nhánh.
Phát triển các sản phẩm tín dụng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại như: Tài khoản cá nhân kết hợp với các dịch vụ gia tăng như trả lương, thẻ, sao
kê, trả hóa đơn dịch vụ; các sản phẩm đầu tư, quản lý tài sản, tài khoản đầu tư tự động, quản lý vốn tập trung; phát triển các tiện ích mới của thẻ ATM, phát triển các dịch vụ cho vay bảo lãnh, cho vay thế chấp, cầm cố.
Phát triển dịch vụ tài chính vi mô:
Theo lời phát biểu của ông Chris De Noose, Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Tiết kiệm Thế giới (WSBI) tại cuộc hội thảo với chủ đề “chiến lược ngân hàng bán lẻ tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” vào tháng 7/2005 tại Hà Nội về sự cần thiết phải có một kênh phân phối hiệu quả để mọi tầng lớp dân cư cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa đều có thể tiếp cận được dịch vụ tài chính là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói riêng và bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nói chung. “ Tiếp cận dịch vụ tài chính là một khái niệm mang tính toàn cầu và có liên quan mật thiết đến chính sách xoá đói, giảm nghèo… nên không có gì khó hiểu khi Liên hợp quốc chọn năm 2005 là năm tài chính vi mô”, ông Chris De Noose giải thích. Thực tế nghiên cứu mới đây của WSBI đã cho thấy phần nào sự cần thiết nói trên: Ở các nước phát triển có tới 80% dân số tiếp cận được dịch vụ tài chính, 20% dân số còn lại không có khả năng hoặc không thể tiếp cận được. Tuy nhiên với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì tỷ lệ này lại ngược lại. Do vậy vai trò của TKBĐ rất quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách này và TKBĐ không đơn thuần chỉ vì vấn đề lợi nhuận mà cần hướng tới việc tăng cường sự tiếp cận của người dân với các dịch vụ tài chính.
Chúng ta đi phân tích thị trường tài chính vi mô để thấy được vai trò của TKBĐ trong việc phát triển dịch vụ tài chính vi mô ở Việt Nam. Cơ cấu thị trường tài chính vi mô ở Việt Nam theo phân đoạn thị trường gồm 3 loại: Thị trường chính thức, bán chính thức và không chính thức:
+ Thị trường tài chính vi mô chính thức được cung cấp bởi bốn đối tượng chính là: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (VBARD); Ngân hàng tín dụng chính sách (VBP); Quỹ tín dụng nhân dân (PCF); Ngân hàng cổ phần nông thôn (RSHBs); phục vụ 8,3 triệu các hộ nông dân. Thị trường tài chính
chính thức cung cấp khoảng 70% các dịch vụ tài chính vi mô. VBARD là tổ chức tài chính lớn nhất cung cấp các dịch vụ cho nông dân qua một mạng lưới rộng khắp đất nước khoảng 1.900 điểm, thị phần khoảng 60% vào cuối năm 2004 và cung cấp dịch vụ cho 35% các hộ gia đình có thu nhập thấp. VBP được biết đến như một ngân hàng phục vụ các hộ gia đình nghèo. PCF là một mạng lưới các tổ chức tài chính và hợp tác xã có chức năng trung gian tài chính tích cực. RSHBs là kết quả của việc tái cơ cấu các hợp tác xã tín dụng nông thôn và có 10% cổ phần của Chính phủ, nhưng các Ngân hàng này có thị phần rất nhỏ.
+ Các dịch vụ tài chính vi mô bán chính thức được cung cấp bởi 3 nhóm bao gồm: các chương trình của Chính phủ, các tổ chức xã hội và của các tổ chức phi chính phủ quốc tế.
+ Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính vi mô không chính thức bao gồm những cá nhân cho vay lãi, họ hàng, các hiệp hội tín dụng nông thôn truyền thống, các tổ chức tương tự ROSCAs (Hiệp hội tiết kiệm và tín dụng)
Tài chính vi mô được coi là một chiến lược quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Vì vậy Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng các dịch vụ tài chính, hình thành môi trường và điều kiện cung cấp các dịch vụ này. Sự áp đặt của Nhà nước trong quản lý tài chính vi mô đã cản trở sự phát triển của nó thành một ngành công nghiệp thương mại tiềm năng. Các chính sách có ảnh hưởng kéo dài bao gồm chính sách lãi suất đi vay của khách hàng, đó là chính sách bao cấp, hoặc cấp vốn phi thương mại thiếu coi trọng việc huy động tiết kiệm (đòi hỏi chênh lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở mức thấp).
Thị trường tài chính vi mô không chính thức vẫn giữ vai trò rất quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Lãi suất cho vay trên thị trường này cao gấp 2 hoặc 3 lần so với lãi suất cho vay của các ngân hàng quốc doanh. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu tập trung cho vay các hộ gia đình giàu có dù với lãi suất thấp. Phần lớn các hộ gia đình ở Việt Nam chỉ vay được rất ít hoặc không vay được vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Có nhiều lý do khiến bộ phận dân nghèo
của Việt Nam vẫn phải tiếp tục sử dụng dịch vụ của thị trường vay không chính thức như không có vật thế chấp, do ở vùng sâu, vùng xa, do hạn chế việc cho vay để mở rộng sản xuất….
Mặc dù trong thập niên 90 của thế kỷ trước, Nhà nước đã có một số chính sách cải cách về pháp lý có tác động đến thị trường tài chính vi mô như chính sách lãi suất thực, chính sách tạo thế chủ động cho các ngân hàng thương mại trong việc quyết định cho vay vốn bằng thế chấp và một số chính sách khác; thị trường huy động tiết kiệm ở Việt Nam vẫn tụt hậu, chưa đến một nửa các tổ chức tài chính vi mô cung cấp dịch vụ thu hút tiết kiệm từ các hộ gia đình. Những nghiên cứu của Tạp chí Tài chính toàn cầu năm 1999 cho thấy có khoảng 6,1 triệu khách hàng với số dư tiền vay 1,76 triệu USD và giá trị trung bình mỗi khoản vay là 150 USD, với khoảng 2.700 điểm giao dịch; cũng theo nghiên cứu của tổ chức này cho thấy chính sách duy trì lãi suất cho vay thấp là nguyên nhân chính làm cho các tổ chức tài chính vi mô không muốn cung cấp dịch vụ huy động tiết kiệm.
Nói chung các tổ chức phi chính phủ không quan tâm đến việc cung cấp các dịch vụ thu hút tiết kiệm cho dân nghèo ở Việt Nam. Các chính sách khác của Chính phủ cũng làm cho việc huy động tiết kiệm bị hạn chế, như việc quy định số tiền gửi tối thiểu tại các NHTM. Tiền gửi thu hút được của VBARD ở thành thị vượt xa vùng nông thôn. Một lý do khác là thiếu các sản phẩm tiết kiệm được thiết kế phù hợp cho việc huy động vốn từ dân cư.
Với bối cảnh trên về thị trường tài chính vi mô ở Việt Nam theo chúng tôi mạng Bưu chính của VNPT và TKBĐ có thể lấp đầy chỗ trống trên thị trường và góp phần vào quá trình chuyển đổi thị trường tài chính vi mô phi chính thức sang chính thức ở Việt Nam.
Để có thể thiết kế được những sản phẩm tài chính vi mô thích hợp ở Việt Nam, chúng ta đi sâu phân tích đặc điểm của các hộ nghèo ở Việt Nam:
Các hộ gia đình, đặc biệt là hộ nghèo cần nhiều sản phẩm và dịch vụ tiết kiệm. Kết quả nghiên cứu của một số tổ chức phi chính phủ chỉ ra rằng người
nghèo thường tìm cách giảm nguy cơ dễ bị rủi ro bằng cách mở rộng các cơ hội tiết kiệm bằng tiền. Thế nhưng hiện nay trong khu vực tài chính chính thức không dễ dàng có được bất kỳ một loại hình tiết kiệm có thể đáp ứng được các nhu cầu gửi tiết kiệm của người nghèo. Với khu vực tài chính nông thôn nói chung thì việc kiểm soát lãi suất có ảnh hưởng đến việc khuyến khích các tổ chức tài chính chính thức thu hút tiết kiệm. Trợ cấp lãi suất cho vay làm cho lãi suất tiết kiệm thấp, giảm sức thu hút của tiết kiệm tiền gửi ngân hàng so với các hình thức sử dụng tiền mặt dư thừa khác. Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy lãi suất chỉ là một trong hàng loạt yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về các dịch vụ tiết kiệm. Các yếu tố khác bao gồm: Sự an toàn, tính thuận tiện, đây là một trong những điểm mà TKBĐ nên khai thác để tận dụng lợi thế của mình.
Việc gửi tiết kiệm với lãi suất thực dương tại các tổ chức tài chính có lợi cho người nghèo cũng như việc họ được vay với lãi suất hợp lý. Không thể nói rằng tất cả hộ nghèo đều không có khả năng tích lũy. Bởi vậy cung cấp các phương tiện tiết kiệm phải đi kèm với đầu tư tín dụng vào các hoạt động mang lại lợi nhuận, theo cách này hộ nghèo có thể tích lũy vốn từ những hoạt động đem lại lợi nhuận và cuối cùng sẽ tự bù đắp được chi phí cho các đầu tư tiếp theo. Do khoản tích lũy ban đầu còn ít, khả năng tiếp cận các cán bộ ngân hàng, cũng như khả năng rút tiền dễ dàng và nhanh chóng đóng vai trò quan trọng trong các dịch vụ gửi tiền.
Do vậy để phát triển các dịch vụ tiết kiệm cho người nghèo ở nông thôn, VNPT cần phải:
Thiết lập được môi trường, chính sách để các dịch vụ trên có thể phát triển được. Các lĩnh vực cần được quan tâm đặc biệt bao gồm các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ an toàn tiền gửi tiết kiệm như: lãi suất thấp phải bằng tỷ lệ lạm phát; các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính phải được quản lý và điều tiết tốt; trách nhiệm và quyền lợi của người gửi phải rõ ràng.
VPSC nên trao quyền tự chủ ở mức cao hơn nữa cho các chi nhánh trong hệ thống TKBĐ trong việc quyết định cơ cấu kỳ hạn nợ và các sản phẩm tiết kiệm mới.