séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc du lịch...
Thanh toán bằng lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi: Lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu NHTM phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi. Lệnh chi hoặc uỷ nhiệm chi được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh NHTM hoặc giữa các chi nhánh NHTM cùng hoặc khác hệ thống trong phạm vi cả nước.
Thanh toán bằng nhờ thu hoặc uỷ nhiệm thu: Uỷ nhiệm thu là giấy uỷ nhiệm do người thụ hưởng lập nhờ NHTM thu hộ tiền trên cơ sở khối lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng. Uỷ nhiệm thu được sử dụng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một NHTM hoặc các chi nhánh NHTM cùng hệ thống hoặc khác hệ thống trên cơ sở có thoả thuận bằng hợp đồng về điều kiện thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng.
+ Dịch vụ thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh giữa các chủ thể của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bằng các hình thức chuyển tiền đi,đến hay bù trừ trên các tài khoản tại các NHTM.
Chuyển tiền đi nước ngoài: Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế, các nước đã có sự nới lỏng các giao dịch vãng lai, các cá nhân được chuyển tiền đi nước ngoài để thanh toán cho các mục đích được phép một cách dễ dàng. Ví dụ ở Việt Nam, cá nhân là công dân Việt Nam có quyền chuyển tiền ra nước ngoài cho các mục đích du học, chữa bệnh, du lịch, thừa kế,...Cá nhân là người nước ngoài chuyển các thu nhập hợp pháp ở Việt Nam về nước. Khách hàng có thể sử dụng hai hình thức chuyển tiền chính là chuyển tiền bằng điện SWIFT và chuyển tiền bằng phát hành hối phiếu ngân hàng
Chuyển tiền đến từ nước ngoài: DV chuyển tiền kiều hối; DV nhận séc nhờ thu do nước ngoài phát hành,...
17
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Sơn Tây - 1
- Phát triển dịch vụ phi tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Sơn Tây - 2
- Vai Trò Của Dịch Vụ Ngân Hàng Trong Nền Kinh Tế Thị Trường.
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Dịch Vụ Phi Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Phát Triển Dịch Vụ Phi Tín Dụng Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Nước Ngoài Và Bài Học Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Thực Trạng Phát Triển Dịch Vụ Phi Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam Chi Nhánh Sơn Tây
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
- Dịch vụ ngân quỹ
+ Thu, chi tại quầy: NH nhận tiền mặt từ khách hàng có nhu cầu nộp tiền vào NH để gửi tiết kiệm, gửi vào tài khoản thanh toán, trả nợ vay, chuyển trả tiền hàng, thu đổi ngoại tệ... Đồng thời NH chi tiền mặt cho KH có nhu cầu rút từ tài khoản của mình, tài khoản tiền vay...tại quầy giao dịch của NH
+ Thu, chi hộ: NH thay mặt cho KH để thực hiện nghiệp vụ thu chi hộ từ người mua hàng hóa, DV...hoặc chi trả hộ lương, chi trả tiền cho đối tác của KH, DV thu, chi hộ có thể thực hiện bằng tiền mặt hoặc bằng phương thức chuyển khoản (qua tài khoản cá nhân hoặc qua thẻ ATM)
- Dịch vụ quản lý tài sản: DV quản lý tài sản mà NH cung ứng cho KH bao gồm DV quản lý tiền mặt, DV cất giữ tài sản và DV tín thác
B. Dịch vụ phi tín dụng hiện đại
- Dịch vụ thẻ ghi nợ: Là loại thẻ cho phép chủ thẻ thự hiện giao dịch trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cho phép nhận tiền gửi không kỳ hạn. Thẻ này chủ yếu được dùng để rút tiền tại máy ATM và thanh toán mua sắm tại nơi có máy POS. Có 2 loại thẻ ghi nợ nội địa (chính là thẻ ATM) và thẻ ghi nợ quốc tế (Visa Debit và Master Debit) với thẻ ATM thì chỉ có thể dùng trong nước còn thẻ ghi nợ quốc tế thì có thể dùng được ở nước ngoài.
- Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý
Kinh doanh ngoại tệ là việc một NHTM đứng ra mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Các sản phẩm dịch vụ kinh doanh ngoại tệ chủ yếu của một NHTM gồm có:
+ Giao dịch giao ngay (Spot Transaction): là giao dịch NHTM mua hay bán ngoại tệ được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là trong hai ngày làm việc kể từ khi ký kết hợp đồng mua bán. Giao dịch giao ngay được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ giao ngay của các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và của chính NHTM.
+ Giao dịch kỳ hạn (Forward Transaction): là giao dịch NHTM mua hay bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ sẽ được thực hiện sau một thời
18
Thang Long University Libraty
gian nhất định kể từ khi ký kết hợp đồng. Giao dịch kỳ hạn là phương tiện phòng chống rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ - rủi ro do sự biến động bất thường của tỷ giá hối đoái. Thực hiện giao dịch kỳ hạn giúp cho các NHTM cố định được khoản thu nhập hay chi trả theo một tỷ giá cố định đã biết trước bất chấp sự biến động tỷ giá trên thị trường.
+ Giao dịch hoán đổi (Swap Transaction): là giao dịch NHTM thực hiện đồng thời hai giao dịch mua và bán cùng một số lượng đồng tiền này với một đồng tiền khác (chỉ có hai đồng tiền được thực hiện trong giao dịch) trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng giao dịch hoán đổi. Giao dịch hoán đổi có thể bao gồm một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn hoặc bao gồm cả hai giao dịch kỳ hạn.
+ Giao dịch quyền chọn (Options Transaction): là quyền được mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ trong một khoảng thời gian hoặc một thời điểm xác định trong tương lai với một tỷ giá thỏa thuận ấn định tại thời điểm giao dịch. Nói cách khác, giao dịch quyền chọn cho người mua “quyền” chứ không phải nghĩa vụ để mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ nhất định vào hoặc trước ngày thỏa thuận trong tương lai (ngày đến hạn) tại một tỷ giá thỏa thuận đồng thời phải trả cho người bán “quyền” một khoản phí nhất định. Đặc điểm cơ bản của giao dịch quyền chọn là người mua “quyền” có quyền thực hiện quyền (quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán) và người bán "quyền” phải đợi người mua “quyền” quyết định thực hiện hay không thực hiện giao dịch.
- Dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin: Ngân hàng là một ngành tập hợp thông tin đa dạng và tổng hợp. Với vị trí trung gian thu hút tiền gửi và cấp tín dụng cho khách hàng, là người quản lý và thanh toán, các ngân hàng có thể tham gia tư vấn cho khách hàng của mình trên hai khía cạnh tư vấn đầu tư, tư vấn thông tin. Các ngân hàng, thông thường ở các lĩnh vực: xây dựng phương án kinh doanh, tính toán chi phí, định giá, tư vấn về pháp luật, chiến lược kinh doanh... Như vậy để triển khai dịch vụ này đòi hỏi ngân hàng phải có đội ngũ
19
cán bộ có trình độ tổng hợp và chuyên sâu ở mức độ cao. Ở Việt Nam, dịch vụ này chưa thực sự phổ biến mà mới dừng ở mức tư vấn, cung cấp thông tin miễn phí sử dụng dịch vụ cho khách hàng. Để trở thành một dịch vụ tạo nên nguồn thu cho ngân hàng, chất lượng thông tin phải được cung cấp ở mức mà khách hàng sẵn lòng trả phí sử dụng. Trong tương lai, để đạt được điều này, ngân hàng cần có mạng lưới thông tin các cấp nhanh nhạy, hiệu quả và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có trí tuệ cao.
- Dịch vụ ngân hàng điện tử: Khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại NHTM muốn sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử phải có thỏa thuận trước với NHTM về việc yêu cầu NHTM cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử. NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng “mã số” để truy cập đến các dịch vụ ngân hàng. Các dịch vụ này khách hàng được NHTM đáp ứng dựa trên việc xử lý thông tin hai chiều giữa NHTM và khách hàng qua mạng Internet hoặc mạng điện thoại di động, trong đó khách hàng chỉ cần truy cập theo Menu do NHTM hướng dẫn và khi các điều kiện đã thỏa mãn thì các dịch vụ ngân hàng mà khách hàng yêu cầu sẽ được thực hiện. NHTM cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử như Internet Banking, Mobile Banking, Homebanking... với các giao dịch về tiền tệ như thanh toán tiền điện, nước sinh hoạt, trả tiền cước phí điện thoại, thông tin về tài khoản của khách hàng, tỷ giá, biểu phí, lãi suất, sao kê tài khoản theo yêu cầu, các phát sinh nợ, có trong ngày.
1.2 Phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan điểm về phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Theo từ điển bách khoa, "phát triển là sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp"[37]
Theo Gerard Crellet (2000), "phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản". Ở đây, phát triển được xem là một quá trình và một xã hội được coi là phát triển khi xã hội đó thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Định nghĩa này không chỉ bao hàm nội dung kinh tế mà còn có nội dung xã hội.
20
Thang Long University Libraty
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, "phát triển là một quá trình tiến lên của sự vật, hiện tượng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định"
Từ các quan điểm khác nhau trên đây, theo tác giả "phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng"
Ngân hàng là một ngành cung ứng các dịch vụ ngân hàng trong đó có DVPTD, do vậy phát triển DVPTD là hết sức cần thiết nhằm góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của ngân hàng và củng cố sự lớn mạnh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, tác giả đưa ra quan điểm: Phát triển dịch vụ phi tín dụng là việc mở rộng quy mô cung ứng và nâng cao chất lượng các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng nhằm thoả mãn ngày càng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đảm bảo các mục tiêu của ngân hàng, bao gồm phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu.
Phát triển về chiều rộng tức đó là việc tăng quy mô, số lượng các DVPTD đã có và mở thêm DVPTD mới, nó gắn liền với đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ phi tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày đa dạng của khách hàng. Điều này đòi hỏi ngân hàng cần phải tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của từng phân khúc, từng đối tượng khách hàng.
Phát triển về chiều sâu có nghĩa là hoàn thiện DVPTD đã có, nó gắn liền với việc nâng cao chất lượng dịch vụ. Cùng với sự phát triển về quy mô, chất lượng dịch vụ ngân hàng không ngừng tăng lên giúp cho các khách hàng ngày càng hài lòng hơn với các dịch vụ ngân hàng. Đây có thể coi như một vũ khí để tạo sự khác biệt mà các ngân hàng sử dụng nhằm tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
1.2.2 Vai trò phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
Sự phát triển dịch vụ phi tín dụng của các NHTM có vai trò qua trọng đối với các NHTM cũng như đối với các khách hàng, và như vậy có vai trò quan trọng cho toàn xã hội và nền kinh tế.
21
1.2.2.1 Đối với các khách hàng
- Tiết kiệm thời gian và chi phí
Dịch vụ phi tín dụng phát triển sẽ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức giúp họ tiết kiệm được thời gian và chi phí do khắc phục được khó khăn về không gian, thời gian và nguồn lực cũng như năng lực tài chính.
- Cung cấp thông tin kịp thời và hiệu quả
Ngày nay, các dịch vụ phi tín dụng ứng dụng những công nghệ cao, giúp cho khách hàng có thể giao dịch trực tiếp với ngân hàng để thực hiện các giao dịch như chuyển tiền, thanh toán hoá đơn, thanh toán lương cho nhân viên, mở LC, …, thông qua các phương tiện truyền dẫn hiện đại, khách hàng có thể cập nhật thông tin mới nhất về các giao dịch gần đây, thông tin tài khoản, tỷ giá, lãi suất, …từ đó có thể đưa ra quyết định kinh doanh chính xác, kịp thời.
1.2.2.2 Đối với các ngân hàng thương mại
- “Góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ từ đó mở rộng đến nhiều đối tượng khách hàng và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng Mở rộng đối tượng khách hàng là mục tiêu của bất kỳ NHTM nào trong
hoạt động kinh doanh hiện nay. Sự phát triển của công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá các dịch vụ phi tín dụng như: dịch vụ BSMS, Internet-banking, Mobile-banking…từ đó có thể mở rộng cung cấp cho nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng thị phần. Các dịch vụ tín dụng thường dễ bị sao chép, ngân hàng này có dịch vụ mới thì ngay lập tức ngân hàng khác cũng sẽ triển khai dịch vụ tương tự như vậy chẳng hạn như dịch vụ biến động số dư tài khoản được gửi vào điện thoại khách hàng thì hầu hết các ngân hàng đều đang áp dụng hay dịch vụ Internet-banking cũng vậy. Vì vậy tập trung vào phát triển dịch vụ phi tín các ngân hàng có thể tìm ra điểm khác biệt về chất lượng, phí dịch vụ,.. giữ chân các khách hàng hiện tại đồng thời thu hút các khách hàng mới, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh về quy mô, uy tín, lợi thế so với các ngân hàng khác.
22
Thang Long University Libraty
- Phân tán rủi ro cho ngân hàng
Dịch vụ tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro, vì rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng được tạo ra khi ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản cấp tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc một cách cụ thể hơn, thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản sinh lời của Ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt giá trị và thời hạn , trong khi đó dịch vụ phi tín dụng ít rủi ro và tạo nguồn thu chắc chắn cho các NHTM vì nguồn thu này chủ yếu từ phí dịch vụ.
- Góp phần gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng
Lợi nhuận ngân hàng đến từ lợi nhuận từ dịch vụ tín dụng, phi tín dụng và một số hoạt động đầu tư có sinh lời khác. Ngày nay khi phát triển dịch vụ tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro cao như tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong vài năm gần đây thì việc tập trung phát triển dịch vụ phi tín dụng giúp bổ trợ và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng một cách ổn định.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Để phát triển các dịch vụ phi tín dụng buộc các NHTM phải liên kết, hợp tác với nhau. Xu thế hội nhập toàn cầu cho phép các ngân hàng trên thế giới có cơ hội hợp tác, liên kết để cùng phát triển, một ngân hàng có thể hoạt động cung cấp dịch vụ đến khắp nơi trên toàn thế giới thông qua sự liên kết với các ngân hàng quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế.
1.2.2.3 Đối với nền kinh tế xã hội
- Góp phần luân chuyển dòng vốn trong nền kinh tế và tính ổn định của hệ thống tài chính
Phát triển dịch vụ phi tín dụng sẽ trực tiếp gia tăng tính linh hoạt của dòng vốn và tiền tệ trong nền kinh tế và cơ cấu vốn được phân bổ một cách tối ưu. Điều đó càng củng cố hiệu lực của hệ thống pháp lý, góp phần bảo đảm tính ổn định của hệ thống tài chính. Công nghệ và trình độ quản lý được cải thiện là nhân tố quan trọng ngăn chặn tối đa sự bất ổn của cả hệ thống tài chính. Nhìn từ một góc độ nào đó thì phát triển DVPTD có thể được coi như
23
là một động thái góp phần đẩy mạnh quá trình minh bạch hóa tài chính cho nền kinh tế, đóng góp tích cực vào việc ngăn chặn các tệ nạn kinh tế xã hội như trốn thuế, rửa tiền… tạo điều kiện dễ dàng hơn cho NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
- Thúc đẩy nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế đã được coi là tất yếu. Từng quốc gia không ngừng khai thác nguồn lực của mình, chủ động hội nhập chung vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Phát triển dịch vụ phi tín dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo xu hướng kinh tế tri thức bởi nó ứng dụng nhiều công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, dịch vụ phi tín dụng cải thiện sự phân bổ nguồn lực về mặt không gian và thời gian, từ đó góp phần tiết kiệm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Điều này rất quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất trong giai đoạn hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới.”
(Nguồn: Tạp chí phát triển và hội nhập số 6 16)- tháng 9-10/2012)
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Các chỉ tiêu định tính
Mức độ hài lòng của khách hàng về dịch vụ phi tín dụng
Bất kỳ một loại sản phẩm dịch vụ nào cũng nhằm để cung ứng và thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Khác với sản phẩm vật chất, khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng không thể cầm, nắm hay cất giữ mà chỉ có thể trải nghiệm bằng cách sử dụng dịch vụ. Ngày nay, nhờ vào nền kinh tế thị trường, khách hàng thật dễ dàng có được sản phẩm DVNH mà mình muốn trong đó có DVPTD. Vì vậy, giá trị kỳ vọng của khách hàng vào DVNH nói chung và DVPTD ngày càng tăng cao và yêu cầu đối với nhà cung cấp dịch vụ ngày càng một lớn. Còn NH với mục tiêu khách hàng là trung tâm nên phải thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng theo phương châm “ngân hàng chỉ cung ứng, chỉ bán, chỉ phục vụ cái mà khách hàng cần”. Vì vậy,
24
Thang Long University Libraty