Năng Lực Hội Nhập Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam

đó là xu hướng mua sắm trực tuyến ngày càng phổ nhiều kênh, nhiều phương tiện khách nhau.

biến trên nhiều nền tảng,

Sthay đổi ca vai trò trung tâm tngân hàng sang khách hàng: Hệ quả của các xu hướng trên cùng sự dịch chuyển mô hình kinh doanh của ngân hàng dẫn đến sự thay đổi trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Trong quá khứ, với vai trò trung gian trong các hoạt động tài chính, ngân hàng thường giữ

phần ưu thế khi thiết lập quan hệ với khách hàng. Vì vậy, những sản phẩm,

quy trình được xây dựng với mục đích tuân thủ quy định pháp lý và giảm thiểu rủi ro tối đa cho ngân hàng, trong khi đó khách hàng buộc phải hoàn thành các thủ tục phức tạp và đáp ứng yêu cầu khắt khe để được sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của công nghệ, vị trí trung tâm kia giờ đã thay đổi. Khách hàng giờ đã là trung tâm, là cơ sở để để ngân hàng xây dựng các sản phẩm, thiết lập các quy trình bán hàng của mình. Khách hàng giờ đây được trao quyền trong việc tìm kiếm thông tin, tiếp cận thông tin, phá bỏ các rào cản về vị trí địa lý để lựa chọn dịch vụ phù hợp nhất. Hơn nữa, yêu cầu của khách hàng về tốc độ và sự tiện lợi trong dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, đòi hỏi các ngân hàng phải nhanh chóng thích ứng, cải tiến không chỉ sản phẩm dịch vụ mà còn cả kênh tiếp cận, quy trình, hạ tầng và nhân sự. Quá trình số hóa diễn ra với mọi sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, từ thanh toán, chuyển tiền, cho vay, tiết kiệm đến quản lý tài chính.

Ddàng tiếp cn vi khách hàng vùng sâu vùng xa: Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ mới trong CMCN 4.0 mở ra cơ hội cho ngân hàng tiếp cận với số lượng khách hàng lớn ở cùng sâu, vùng xa. Những giải pháp công nghệ

phù hợp giúp ngân hàng tối giản quy trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng

trong khoảng thời gian ngắn nhất và không phụ thuộc hay hạn chế bởi khoảng cách địa lý. Qua các kênh số, mạng xã hội trong cuộc sống hàng ngày cho phép các ngân hàng nhanh chóng tiếp cận với hàng triệu khách hàng với chi phí tối thiểu.

Scnh tranh ngày càng khc lit: cùng với cơ hội là thách thức đến từ sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong cuộc chạy đua về công nghệ và sự xuấy hiện của các công ty công nghệ tài chính (fintech). Những ngân hàng với mạng lưới giao dịch truyền thống dày đặc, thống lĩnh thị trường có thể bị cạnh tranh sòng phẳng bởi những ngân hàng, fintech với bộ máy tinh gọn, phát triển nền

tảng số

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 258 trang tài liệu này.

hoàn thiện. Những kênh tiếp cận trên nền tảng số

tạo điều kiện cho

Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế về tài chính ngân hàng - 10

ngân hàng gia tăng thị phần một cách nhanh chóng, vượt xa khả năng của các chi nhánh truyền thống.

1.3.2. Năng lực hội nhập quốc tế của ngân hàng thương mại Việt Nam

trong phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ

1.3.2.1. Những thỏa thuận và điều kiện hội nhập quốc tế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Hội nhập quốc tế về dịch vụ NHBL là quá trình gắn kết hoạt động ngân hàng bán lẻ của mỗi nước với hoạt động ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng trong khu vực và thế giới, thông qua những nỗ lực mở cửa và tự do hóa hoạt

động ngân hàng bán lẻ trong nước với điều kiện các hoạt động đó phải phù

hp vi thông l, vi lut pháp quc tế. Hoạt động ngân hàng bán lẻ phải tuân thủ theo quy luật thị trường và các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động ngân hàng bán lẻ được thực hiện theo tín hiệu thị trường do thị trường quyết định mà không bị ngăn chặn bởi các biện pháp quản lý hành chính.

Mức độ hội nhập về hoạt động ngân hàng bán lẻ được đo bằng mức độ mở cửa cho hoạt động ngân hàng bán lẻ của nước ngoài trên thị trường nội địa, cụ thể hơn là mức độ dỡ bỏ các giới hạn, rào cản ngăn cách hoạt động của các ngân hàng trong nước với hoạt động của ngân hàng trong khu vực và thế giới, mức độ xâm nhập hoạt động ngân hàng của quốc gia đó trên thị trường nước

ngoài. Thực hiện hội nhập quốc tế

trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ

đòi hỏi

Chính phủ và NHNN phải xóa bỏ những ưu đãi, tiến tới cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng trong và ngoài nước. Do đó, mức độ hội nhập quốc tế trong

lĩnh vực ngân hàng bán lẻ có mối quan hệ chặt chẽ với mức độ tự do hóa tài

chính ­ tiền tệ. Việc thực hiện tự do hóa tài chính ­ tiền tệ càng sâu rộng có

hiệu quả thì việc hội nhập dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói riêng càng thuận lợi và nhanh chóng.

1.3.2.2. Các yếu tố cơ bản quyết định năng lực hội nhập quốc tế của ngân hàng thương mại Việt Nam trong phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ

(i) Năng lc tài chính ca NHTM: Năng lực tài chính của NHTM được thể

hiện thông qua một số tiêu chí chủ yếu sau: Vốn tự có ( là nguồn lực tự có mà ngân hàng sở hữu và sử dụng vào mục đích kinh doanh theo luật định. Vốn tự có

bao gồm: Giá trị

thực của vốn điều lệ, các quỹ dự

trữ

và một số

tài sản Nợ

khác); Sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động (đây là nguồn vốn quan trọng, quyết định đến hoạt động của ngân hàng, là nguồn nguyên liệu chính cho hoạt động kinh doanh của NHTM, thường chiếm từ 90 ­ 95% cơ cấu tổng tài sản. Chính vì vậy, ngân hàng nào huy động được nguồn vốn càng cao sẽ thể hiện

năng lực tài chính và khả

năng kinh doanh càng tốt); Hiệu quả sử

dụng vốn

(được đánh giá qua 2 tiêu chí là khả hàng)

năng sinh lời và mức độ

rủi ro của ngân

(ii) Năng lực khoa học công nghệ:

Khoa học công nghệ

đã được thừa

nhận như là lực đẩy khiến NHTM tiến những bước vượt bậc về phía trước trên các phương diện: tốc độ xử lý nghiệp vụ, tích hợp chức năng, chính xác, tiện dụng. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế công nghệ ngân hàng tiên tiến có độ lan tỏa nhanh, các ngân hàng đi đầu có thể gặp một chút khó khăn trong việc giúp khách hàng làm quen với công nghệ mới, nhưng khi công nghệ mới đã định vị, các NHTM lạc hậu sẽ chắc chắn mất khách hàng.

(iii) Năng lc qun tr: Quản trị ngân hàng là một loạt mối quan hệ giữa Ban điều hành, Hội đồng quản trị (HĐQT), các cổ đông và các bên có liên quan khác trong ngân hàng. Quản trị ngân hàng còn là một cơ chế để thông qua đó xác

định các mục tiêu của ngân hàng, phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và theo dòi kết quả thực hiện. Quản trị ngân hàng tập trung vào cơ cấu và các quy trình của ngân hàng nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và giải trình. Quản trị ngân hàng nhằm bảo đảm rằng ngân hàng sẽ được quản

lý một cách hiệu quả

và phục vụ

lợi ích của các cổ

đông. Năng lực quản trị

ngân hàng thể hiện trong việc thực hiện 2 mục tiêu chính của ngân hàng là tối đa hoá giá trị cổ đông và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông nhỏ

và người có quyền lợi liên quan. Năng lực quản trị của ngân hàng là yếu tố

quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Cùng với đó còn phải kể đến các yếu tố khác như: Năng lực tổ chức phục vụ của ngân

hàng, khả

năng thích nghi môi trường kinh doanh và kết quả

hoạt động kinh

doanh của ngân hàng.

Năng lc marketing ngân hàng: Marketing ngân hàng là toàn bộ quá trình

tổ chức và quản lý của một ngân hàng từ việc phát hiện ra nhu cầu của các

nhóm khách hàng đã chọn và thỏa mãn nhu cầu của họ bằng hệ thống các chính sách biện pháp nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận như dự kiến. Năng lực marketing

ngân hàng thể

hiện

ở những khía cạnh sau: Marketing tham gia vào việc giải

quyết những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh doanh ngân hàng như xác định

sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cần cung ứng ra thị trường, tổ chức quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ và hoàn thiện mối quan hệ trao đổi giữa khách hàng

và ngân hàng trên thị

trường, giải quyết hài hòa các mối quan hệ

lợi ích giữa

khách hàng, nhân viên và ngân hàng; Marketing trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường; Marketing góp phần tạo vị thế cạnh tranh của ngân hàng.

Năng lc đổi mi sn phm dch v: Dịch vụ ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng vào kết quả hoạt động của ngân hàng, nó góp phần tạo hình ảnh, vị thế của ngân hàng trên thị trường. Một ngân hàng có mạng lưới sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú, sản phẩm dịch vụ luôn được cải tiến, đổi mới phục vụ

được đông đảo đối tượng khách hàng sẽ được đánh giá cao hơn các ngân hàng khác và ngược lại.

1.3.3. Cơ

hội và thách thức đối với ngành Ngân hàng Việt Nam về

phát

triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong điều kiện hội nhập quốc tế

1.3.3.1. Cơ hội

Thứ

nhất, hội nhập quốc tế

là định hướng chiến lược của Chính phủ

Việt Nam, vì vậy các NHTM có điều kiện gia tăng việc tiếp cận thị trường quốc

tế. Cać đối tác Viêṭ Nam đã, đang và sẽ ký FTA đêù là những nước có thị trường

tài chính, ngân hàng rất phát triển, hoặc đã mở cửa đáng kể cho sự tham gia của

các nhàđầu tư nước ngoài, hoặc là lợi ích sẽ không bị tać động đanǵ kể bởi viêc̣

mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam có thể

nâng cao khả

năng tiếp cận thị

trường và đầu tư

qua biên giới thông qua cac

hiệp định đối tác thương mại mà Việt Nam là thành viên. Cùng với sự xuất hiện của CMCN 4.0 không chỉ các ngân hàng lớn mà toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội vươn cánh tay ra ngoài lãnh thổ, mở rộng phạm vi hoạt

động và tạo dựng thương hiệu trên thị

trường quốc tế

nếu kịp thời nắm bắt

được lợi thế của cuộc cách mạng này. Các ngân hàng Việt Nam có cơ hội tiếp cận và tham gia vào một sân chơi kinh doanh bình đẳng mang tính chất toàn cầu, có tính chuyên nghiệp cao; đồng thời người tiêu dùng Việt Nam được hưởng nhiều hơn lợi ích từ sân chơi này.

Thứ hai, các NHTM Việt Nam có cơ hội tăng cường khả năng ứng dụng

công nghhin đại: Những tiến bộ từ CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi

cho các ngân hàng Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư, tận dụng lợi thế đi sau để tiếp nhận sự hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật, đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới từ các ngân hàng, các đối tác nước ngoài, các nhà đầu tư chiến lược trong việc ứng dụng kinh nghiệm quản trị và kinh doanh hiện đại, tiếp thu mô hình ngân hàng số thông minh và phát triển sản phẩm dịch vụ công nghệ cao. Khi ngành

ngân hàng Việt Nam tận dụng tốt cơ

hội CMCN 4.0 và các FTA thế

hệ mới

mang lại thì sẽ tiếp cận được với các công nghệ hiện đại, thị trường rộng mở, nâng cao chất lượng dịch vụ, có khả năng rút ngắn khoảng cách về công nghệ và tri thức với thế giới

Thứ

ba, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ

ngân hàng

theo hướng hin đại hơn, hiu quhơn để gia tăng li nhun: Trên nền tảng CMCN 4.0 với việc tận dụng lợi thế kinh tế qui mô, kinh tế chia sẻ, việc triển khai ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao liên quan đến kết nối internet, điện toán

đám mây, công nghệ cảm biến, thực tế ảo… sẽ giúp giảm thiểu chi phí giao

dịch, vận chuyển, quản lý, góp phần tiết kiệm về mặt tài chính cho các ngân

hàng Việt Nam từ đó nâng cao lợi nhuận, đảm bảo tính sẵn sàng cao cho hệ

thống trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử của khách hàng. Khi sự minh bạch ngày càng rò hơn, người tiêu dùng Việt Nam có

nhiều cơ

hôi tiếp cận hơn với các dịch vụ

tài chính hàng đầu trong và ngoài

nước. Từ đó giúp các ngân hàng trong nước nâng mình lên một tầm cao mới,

phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

1.3.3.2. Thách thức

(i) Chính sách và hệ thống quản lý còn chậm đổi mới so với thực tiễn:

CMCN 4.0 đặt ra yêu cầu mới cho Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng các

khuôn khổ

chính sách mới để

quản lý, giám sát những yếu tố

mới của ngành

Ngân hàng. Ví dụ

tiền thuật toán (crypto currency), tiền điện tử

(E­ money).

Trong quá trình đẩy mạnh hoạt động ngân hàng số, các ngân hàng Việt Nam đang gặp vướng mắc bởi hành lang pháp lý chưa đầy đủ. Ví dụ, với nguyên tắc xác minh danh tính (KYC), pháp luật hiện hành yêu cầu người dân phải đến chi nhánh ngân hàng để xác thực đầu tiên trước khi trở thành khách hàng của ngân hàng. Trong khi đó, ngân hàng số có khả năng làm được eKYC (định danh điện tử) dựa vào khuôn mặt, giọng nói, không yêu cầu khách hàng phải đến ngân hàng.

Ngoài ra sự thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định, thủ tục liên quan đến nhiều Bộ, ban, ngành gây trở ngại lớn trong việc xây dựng quy định pháp lý mới đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ ngành ngân hàng. Điển hình như việc áp dụng công nghệ nhận dạng chữ viết (OCR) trong định danh khách

hàng. Bên cạnh đó, với tốc độ

phát triển chóng mặt của các công nghệ

mới,

mang tính đột phá và có thể làm thay đổi cấu trúc nhiều ngành nghề, lĩnh vực, cơ quan quản lý Nhà nước khó có thể đưa ra quyết định tức thời về hành lang pháp lý phù hợp, do phải xem xét đến nhiều yếu tố rủi ro đặc thù với những ứng dụng mới. Hơn nữa xem xét đến khả năng trao đổi dữ liệu phi biên giới, mang tầm ảnh hưởng liên quốc gia của cuộc cách mạng công nghệ số, cơ quan quản lý Nhà nước cần cân nhắc hiện trạng áp dụng trong nước cũng như môi trường pháp lý quốc tế trong quá trình xây dựng hành lang pháp lý cho ứng dụng công nghệ mới.

(ii) Điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát dòng tiền chưa bắt kịp thực tiễn hội nhập, gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh tiền điện tử ngày càng được sử dụng và chấp nhận rộng rãi: Với sự phát triển của CNTT, tương lai không xa sẽ hình thành một hệ thống tiền tệ toàn cầu với những giao dịch điện tử diễn ra theo thời gian thực và do đó khả năng các ngân hàng trung ương (NHTW) gặp

khó khăn trong việc kiểm soát hệ

thống tiền tệ

quốc gia có thể

xảy ra. Đặc

biệt, việc NHTW rất khó khăn để kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế

trong trường hợp tổ chức phát hành tiền điện tử

là các định chế

tài chính phi

ngân hàng tại nước ngoài. Hiện nay, xu hướng thâm nhập giữa các công ty tài chính công nghệ (fintech) vào lĩnh vực ngân hàng kéo theo sự phát triển và khả năng xâm chiếm của hoạt động ngân hàng ngầm, đặc biệt đối với các thanh toán phi truyền thống (cổng thanh toán điện tử, ví điện tử, thanh toán do công ty viễn thông cung cấp…). Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho NHNN trong việc quản lý cấp phép, giám sát hoạt động cũng như kiểm soát dòng tiền thanh toán từ các tổ chức này

(iii) Mô hình và điu kin kinh doanh ca NHTM chưa đổi mi. Mô hình kinh doanh và nguồn lực tài chính của NHTM cần được điều chỉnh, nâng cấp để thích ứng với xu hướng ứng dụng công nghệ cao. Cuộc CMCN 4.0 cùng với sự phát triển của các tính năng của ngân hàng số gây khó khăn cho các ngân hàng trong nước trong việc thích ứng cách thức hoạt động kinh doanh của mình. Trên thực tế, việc ứng dụng các công nghệ mới vẫn còn nhiều rào cản tại hệ thống ngân hàng Việt Nam do nhận thức chưa đủ về công nghệ này hay tâm lý ngại

chuyển đổi từ

mô hình truyền thống sang mô hình cung cấp dịch vụ

mới. Sự

dịch chuyển sang mô hình mới cũng là một quá trình phức tạp mà trong đó phải có sự nhất quán trong mô hình quản trị, kế hoạch chuyển đổi và phương thức triển khai trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nguồn lực, tiềm năng và những rủi ro sẽ gặp phải khi thay đổi mô hình kinh doanh. Mặt khác, bất kể sự thay đổi về công nghệ, phương thức quản lý hay thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng

phạm vi hoạt động… đều đòi hỏi phải có tiềm lực về tài chính không nhỏ.

Trong khi đó hiện nay các ngân hàng Việt Nam vẫn còn thua kém rất lớn trong tương quan với các tổ chức tài chính nước ngoài. Nếu ngân hàng nào không có sự chuẩn bị sẵn sàng về nguồn lực tài chính thì ngân hàng đó sẽ thất bại ngay từ bước đầu tiên tiếp nhận cuộc CMCN 4.0.

(iv) An ninh trong kinh doanh của hệ thống NHTM còn nhiều bất cập:

Việc kết nối vạn vật và dữ liệu lớn khiến rủi ro về CNTT có thể tăng lên, đặc biệt là vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin. Với sự phát triển ngày càng

tinh vi của công nghệ số và xu hướng chuyển dần sang điện toán đám mây

(clound­computing), những lỗ hổng bảo mật theo đó có thể tăng lên, dẫn đến

những quan ngại ngày càng lớn về rủi ro tin tặc tấn công. Xu hướng tội phạm công nghệ đang chuyển dần từ tấn công cơ học sang khai thác các lỗ hổng về

công nghệ

và người dùng. Lỗ

hổng từ

người dùng có thể

khai thác qua việc

người dùng vô tình truy nhập vào những đường dẫn lạ, truy cập các trang website không an toàn. Do vậy, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp phải thách thức

Xem tất cả 258 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí